Người Khơ Mú sống bằng nghề nông nghiệp lúa cạn với những trảng nương (Hrệ) ở vùng đồi núi chẳng mấy mầu mỡ. Họ có đời sống sinh hoạt văn hoá tinh thần với vốn ca múa dân gian qua lễ hội Mah grợ và điệu múa uyển chuyển, sôi động.
< Cả bản cùng tham gia Lễ hội Cầu mưa.
Lễ hội lớn nhất của người Khơ Mú là lễ hội Mah grợ. Trong lễ hội này ông trưởng bản đóng vai trò “thầy mo” trình tế lên các thần linh để cầu mưa, cầu phúc, mong cho mưa thuận gió hoà, cho mọi người, mọi nhà sức khoẻ, trai gái nên duyên vợ chồng…
< Điệu múa “Xên lẩu nó” của người Khơ Mú.
Trước đây lễ hội Mah grợ được tổ chức tại nhà của người có kinh tế khá giả nhất bản, hoặc nhà ông trưởng bản. Lễ hội Mah grợ gồm 2 phần chính là phần lễ cúng của chủ nhà và phần hội múa của cộng đồng trong bản.
< Sôi động và điệu nghệ với điệu Tăng Bu.
Về phần lễ, ngay từ sáng sớm, bà chủ nhà đóng vai “Mẹ lúa” cùng cô con gái mặc váy áo, đội khăn piêu đẹp, đeo cái ếp (dỏ), tay cầm con dao mài sắc rồi lên nương.
< Điệu múa Vêr guông (Múa Âu eo) uyển chuyển của thiếu nữ Khơ Mú.
Đến nương của mình, hai mẹ con chủ nhà đào lấy củ khoai sọ cuối cùng, cắt lấy phần lá khoai bỏ vào ếp và thêm mấy que củi khô rồi gùi về bản. Người Khơ Mú xưa quan niệm rằng củ khoai, quả bí đỏ mới là thóc lúa.
< …Và cả khi “lắc cái mông” trong tư thế ngồi của điệu múa Âu eo.
Trên đường từ nương về đến bản, bà chủ nhà đóng vai “Mẹ lúa” luôn miệng hú gọi hồn lúa (hmal ngọ) với ý nghĩa: “Nương đã thu hoạch hết, đã đưa thóc lúa về bản, các hồn cũng về nhà thôi. Về để dự hội Mah grợ”.
< Dụng cụ ống nứa đuổi chim cũng trở thành đạo cụ múa của điệu “Hưn mạy” của người Khơ Mú.
Về đến bản, trước khi leo lên cầu thang của nhà mình, “Mẹ lúa” lại hú hồn lúa lần nữa mới mang củ khoai sọ vùi vào bếp tro lửa nướng chín. Khi khoai chín, chỉ mình “Mẹ lúa” được ăn với quan niệm nếu ai ăn khoai trước sẽ bị đau răng, đau mắt. Tiếp theo, “Mẹ lúa” lấy thịt con sóc, con chuột rừng đã được sấy khô trên gác bếp xuống, rửa sạch rồi bỏ vào nồi nấu.
< Nam nữ “diễn viên” chân đất trong điệu múa Tăng bu của người Khơ Mú.
Trong lúc bà chủ nhà lên nương đem khoai về thì ông chồng (chủ nhà) lấy lạt tre đan Ta leo (phên đan hình mắt cáo có diện tích bằng cái vung nồi) rồi cùng con rể (nếu có) mổ gà chuẩn bị mâm cúng tổ tiên.
< Đạo cụ là cây gây trọc lỗ trong điệu múa Tra hạt.
Khi mổ 3 con gà cho mâm cúng, con gà thứ nhất được cắt mỏ lấy tiết bôi vào đôi đầu gối của từng thành viên trong nhà với ý nghĩa: Trong năm, con người phải leo đèo trèo núi làm nương, đầu gối yếu mềm, nay “sửa lại” cho đầu gối mạnh khoẻ, cứng cáp.
< Mùa xuân là mùa làm nương, gieo hạt của cư dân Khơ Mú ở Tây Bắc. Phương thức sản xuất trọc lỗ tra hạt đã được nghệ thuật hoá thành điệu múa Tra hạt uyển chuyển.
Người chủ nhà tiếp tục cắt mỏ con gà sống thứ 2 rồi lấy tiết quyệt vào bồ thóc, rổ khoai, khấn: “Thóc năm nay tốt, sang năm khoai thóc được mùa tốt hơn”. Tiếp tục cắt mỏ con gà thứ 3 đem tiết xuống gầm sàn bôi lên đầu con trâu. Con trâu được phủ miếng vải thổ cẩm, vải trắng
lên lưng, đôi sừng trâu được buộc hoa rừng. Ông chủ nhà khấn tiếp:
< Cầu “mưa rơi cho chim ướt lông, cho hạt chóng nẩy mầm” (Dân ca Khơ Mú).
“Trâu ơi, ta bảo trâu phải khoẻ, đẻ nhiều con, hồn trâu phải dũng mãnh để hổ phải sợ. Sang năm trâu giúp ta kéo cầy làm nương, kéo gỗ về làm nhà, để ta giầu có”…
Cúng tổ tiên xong, chủ nhà buộc phên “Ta leo” lên chỗ bàn thờ với quan niệm đó là chỗ ở mới của “ma nhà” (tương tự tục thay bát hương bàn thờ tổ tiên trong dịp Tết Nguyên đán của người xuôi).
Tiếp tục phần lễ, ông chủ nhà vê từng viên (4 viên) cơm nếp sôi ở bàn cúng vừa mang xuống, rồi đem dính vào tóc của từng đứa trẻ thành viên trong nhà với quan niệm: Hồn đứa trẻ ở trên đầu cũng được ăn cơm mới, không ốm đau, chóng lớn.
< Thiếu nữ Khơ Mú trong ngày hội Mah grợ.
Lúc này, bà chủ nhà (Mẹ lúa) cũng trổ tài khoe bông lúa nhà mình trắc hạt với các cụ bà đến dự lễ và cài những cánh hoa rừng lên búi tóc của họ. Bà chủ nhà nói rằng: “Đã có cơm gạo, các cụ vui khoẻ, đẹp như hoa rừng, sống lâu, năm tới các cụ lại đến vui hội”.
Bữa cơm nội gia của chủ nhà ăn xong (không mời khách ăn cùng), bà chủ nhà và những người trong gia đình đem rổ khoai, bí đã đồ chín nhừ để ở giữa nhà. Lúc này, cuộc vui bôi khoai, bí chín vào áo của nhau mới bắt đầu. Cả chủ lẫn khách thi nhau nhặt từng miếng khoái, bí ăn một miếng, phần còn lại bôi lên áo ông, bà chủ nhà, rồi bôi vào khách. Ai bôi được nhiều người sẽ được hạnh phúc, gặp nhiều may mắn trong năm (ý nghĩa tương tự như hội té nước của dân tộc Lào, Thái). Sau cuộc bôi bí là cuộc uống rượu cần chum to, lần lượt các cụ ông đến lượt cụ bà, khách quý. Uống rượu cần hết lượt mới bước vào cuộc nhảy múa.
< Mẹ con trong tiếng trống ngày xuân.
Về phần hội Mah Grợ. Trống chiêng nổi lên gọi là Brinh họa (trống đuổi khỉ) cũng là tiếng trống, chiêng thúc giục mọi người trong bản về dự hội, mời ra múa. Nam đeo chiếc trống nhỏ “Kọong khăn” vừa là nhạc khí vừa là đạo cụ múa. Nữ trên tay cầm đôi chũm chọe Tseeng vừa là nhạc vừa là đạo cụ múa. Điệu múa nhún nhảy,mềm mại theo nhịp chiêng trống rộn ràng, bốc lửa.
Các “diễn viên” múa lượn lưng eo càng diễn càng say, lúc bay bổng cùng đôi chân dướn lên như chim vỗ cánh, lúc nhún nhảy như ngọn tre gặp gió lướt, khi thì như cù quay xoay vòng lả lướt làm người xem đứng vòng trong, vòng ngoài cũng nhún nhảy theo. Người múa tự khoe mình là chính, không bị gò bó trong đội hình vuông tròn, rồi hoà vào khối cộng đồng chẳng phân biệt được ai diễn chính, diễn phụ, tạo nên cảnh người múa và người xem thành một khối diễn. Đấy chính là múa Vêr guông của dân tộc Khơ Mú Tây Bắc trong lễ hội Mah grợ. Họ có thể múa xuất ngày đến thâu đêm trong lễ hội của mùa xuân.
< Đón “mưa xuân” trong lễ hội Cầu mưa.
Chị Lò Thị Thanh (46 tuổi) ở bản Bó Phứa, xã Nong Lay, cho biết: Hôm nay bà con dân bản tổ chức vui hội Mah grợ. Còn phần lễ thì năm nay không tổ chức, nhưng nó được thể hiện qua các điệu múa trong hội. Đó là các điệu múa Mừng năm mới (Tỏn chiêng pi mâứ), múa Cầu mưa, Vêr guông (âu eo), Tăng bu, Tra hạt, Kin lẩu nó (múa xung quanh cây nêu), Uống rượu cần (Ươc bụt xạ).
< Uống rượu cần là để giao lưu trong cộng đồng, cũng là một thể thức nghệ thuật trong điệu xoè “ Ươc bụt xạ” và kết thúc ngày hội Mah grợ của cư dân Khơ Mú Tây Bắc.
Những điệu múa Vêr guông (múa Âu eo), Tăng Bu, Tra hạt… của người Khơ Mú Nong Lay uyển chuyển, nhịp nhàng, sôi động. Các động tác trông như lắc cái mông, uốn cái eo, xoay dần xuống rồi xoay dần lên. Nhưng nó là uốn cái lưng là chính. Bởi bà con nói vui rằng: Vì người Khơ Mú lao động làm nương, cúi còng lưng nhiều quá, cái lưng như muốn dứt ra, nên phải “uốn lại” cái lưng, “sửa lại” đôi đầu gối cho khoẻ thành điệu múa thôi mà.
Du lịch, GO! -Theo Điêu Chính Tới, BEE
< Cả bản cùng tham gia Lễ hội Cầu mưa.
Lễ hội lớn nhất của người Khơ Mú là lễ hội Mah grợ. Trong lễ hội này ông trưởng bản đóng vai trò “thầy mo” trình tế lên các thần linh để cầu mưa, cầu phúc, mong cho mưa thuận gió hoà, cho mọi người, mọi nhà sức khoẻ, trai gái nên duyên vợ chồng…
< Điệu múa “Xên lẩu nó” của người Khơ Mú.
Trước đây lễ hội Mah grợ được tổ chức tại nhà của người có kinh tế khá giả nhất bản, hoặc nhà ông trưởng bản. Lễ hội Mah grợ gồm 2 phần chính là phần lễ cúng của chủ nhà và phần hội múa của cộng đồng trong bản.
< Sôi động và điệu nghệ với điệu Tăng Bu.
Về phần lễ, ngay từ sáng sớm, bà chủ nhà đóng vai “Mẹ lúa” cùng cô con gái mặc váy áo, đội khăn piêu đẹp, đeo cái ếp (dỏ), tay cầm con dao mài sắc rồi lên nương.
< Điệu múa Vêr guông (Múa Âu eo) uyển chuyển của thiếu nữ Khơ Mú.
Đến nương của mình, hai mẹ con chủ nhà đào lấy củ khoai sọ cuối cùng, cắt lấy phần lá khoai bỏ vào ếp và thêm mấy que củi khô rồi gùi về bản. Người Khơ Mú xưa quan niệm rằng củ khoai, quả bí đỏ mới là thóc lúa.
< …Và cả khi “lắc cái mông” trong tư thế ngồi của điệu múa Âu eo.
Trên đường từ nương về đến bản, bà chủ nhà đóng vai “Mẹ lúa” luôn miệng hú gọi hồn lúa (hmal ngọ) với ý nghĩa: “Nương đã thu hoạch hết, đã đưa thóc lúa về bản, các hồn cũng về nhà thôi. Về để dự hội Mah grợ”.
< Dụng cụ ống nứa đuổi chim cũng trở thành đạo cụ múa của điệu “Hưn mạy” của người Khơ Mú.
Về đến bản, trước khi leo lên cầu thang của nhà mình, “Mẹ lúa” lại hú hồn lúa lần nữa mới mang củ khoai sọ vùi vào bếp tro lửa nướng chín. Khi khoai chín, chỉ mình “Mẹ lúa” được ăn với quan niệm nếu ai ăn khoai trước sẽ bị đau răng, đau mắt. Tiếp theo, “Mẹ lúa” lấy thịt con sóc, con chuột rừng đã được sấy khô trên gác bếp xuống, rửa sạch rồi bỏ vào nồi nấu.
< Nam nữ “diễn viên” chân đất trong điệu múa Tăng bu của người Khơ Mú.
Trong lúc bà chủ nhà lên nương đem khoai về thì ông chồng (chủ nhà) lấy lạt tre đan Ta leo (phên đan hình mắt cáo có diện tích bằng cái vung nồi) rồi cùng con rể (nếu có) mổ gà chuẩn bị mâm cúng tổ tiên.
< Đạo cụ là cây gây trọc lỗ trong điệu múa Tra hạt.
Khi mổ 3 con gà cho mâm cúng, con gà thứ nhất được cắt mỏ lấy tiết bôi vào đôi đầu gối của từng thành viên trong nhà với ý nghĩa: Trong năm, con người phải leo đèo trèo núi làm nương, đầu gối yếu mềm, nay “sửa lại” cho đầu gối mạnh khoẻ, cứng cáp.
< Mùa xuân là mùa làm nương, gieo hạt của cư dân Khơ Mú ở Tây Bắc. Phương thức sản xuất trọc lỗ tra hạt đã được nghệ thuật hoá thành điệu múa Tra hạt uyển chuyển.
Người chủ nhà tiếp tục cắt mỏ con gà sống thứ 2 rồi lấy tiết quyệt vào bồ thóc, rổ khoai, khấn: “Thóc năm nay tốt, sang năm khoai thóc được mùa tốt hơn”. Tiếp tục cắt mỏ con gà thứ 3 đem tiết xuống gầm sàn bôi lên đầu con trâu. Con trâu được phủ miếng vải thổ cẩm, vải trắng
lên lưng, đôi sừng trâu được buộc hoa rừng. Ông chủ nhà khấn tiếp:
< Cầu “mưa rơi cho chim ướt lông, cho hạt chóng nẩy mầm” (Dân ca Khơ Mú).
“Trâu ơi, ta bảo trâu phải khoẻ, đẻ nhiều con, hồn trâu phải dũng mãnh để hổ phải sợ. Sang năm trâu giúp ta kéo cầy làm nương, kéo gỗ về làm nhà, để ta giầu có”…
Cúng tổ tiên xong, chủ nhà buộc phên “Ta leo” lên chỗ bàn thờ với quan niệm đó là chỗ ở mới của “ma nhà” (tương tự tục thay bát hương bàn thờ tổ tiên trong dịp Tết Nguyên đán của người xuôi).
Tiếp tục phần lễ, ông chủ nhà vê từng viên (4 viên) cơm nếp sôi ở bàn cúng vừa mang xuống, rồi đem dính vào tóc của từng đứa trẻ thành viên trong nhà với quan niệm: Hồn đứa trẻ ở trên đầu cũng được ăn cơm mới, không ốm đau, chóng lớn.
< Thiếu nữ Khơ Mú trong ngày hội Mah grợ.
Lúc này, bà chủ nhà (Mẹ lúa) cũng trổ tài khoe bông lúa nhà mình trắc hạt với các cụ bà đến dự lễ và cài những cánh hoa rừng lên búi tóc của họ. Bà chủ nhà nói rằng: “Đã có cơm gạo, các cụ vui khoẻ, đẹp như hoa rừng, sống lâu, năm tới các cụ lại đến vui hội”.
Bữa cơm nội gia của chủ nhà ăn xong (không mời khách ăn cùng), bà chủ nhà và những người trong gia đình đem rổ khoai, bí đã đồ chín nhừ để ở giữa nhà. Lúc này, cuộc vui bôi khoai, bí chín vào áo của nhau mới bắt đầu. Cả chủ lẫn khách thi nhau nhặt từng miếng khoái, bí ăn một miếng, phần còn lại bôi lên áo ông, bà chủ nhà, rồi bôi vào khách. Ai bôi được nhiều người sẽ được hạnh phúc, gặp nhiều may mắn trong năm (ý nghĩa tương tự như hội té nước của dân tộc Lào, Thái). Sau cuộc bôi bí là cuộc uống rượu cần chum to, lần lượt các cụ ông đến lượt cụ bà, khách quý. Uống rượu cần hết lượt mới bước vào cuộc nhảy múa.
< Mẹ con trong tiếng trống ngày xuân.
Về phần hội Mah Grợ. Trống chiêng nổi lên gọi là Brinh họa (trống đuổi khỉ) cũng là tiếng trống, chiêng thúc giục mọi người trong bản về dự hội, mời ra múa. Nam đeo chiếc trống nhỏ “Kọong khăn” vừa là nhạc khí vừa là đạo cụ múa. Nữ trên tay cầm đôi chũm chọe Tseeng vừa là nhạc vừa là đạo cụ múa. Điệu múa nhún nhảy,mềm mại theo nhịp chiêng trống rộn ràng, bốc lửa.
Các “diễn viên” múa lượn lưng eo càng diễn càng say, lúc bay bổng cùng đôi chân dướn lên như chim vỗ cánh, lúc nhún nhảy như ngọn tre gặp gió lướt, khi thì như cù quay xoay vòng lả lướt làm người xem đứng vòng trong, vòng ngoài cũng nhún nhảy theo. Người múa tự khoe mình là chính, không bị gò bó trong đội hình vuông tròn, rồi hoà vào khối cộng đồng chẳng phân biệt được ai diễn chính, diễn phụ, tạo nên cảnh người múa và người xem thành một khối diễn. Đấy chính là múa Vêr guông của dân tộc Khơ Mú Tây Bắc trong lễ hội Mah grợ. Họ có thể múa xuất ngày đến thâu đêm trong lễ hội của mùa xuân.
< Đón “mưa xuân” trong lễ hội Cầu mưa.
Chị Lò Thị Thanh (46 tuổi) ở bản Bó Phứa, xã Nong Lay, cho biết: Hôm nay bà con dân bản tổ chức vui hội Mah grợ. Còn phần lễ thì năm nay không tổ chức, nhưng nó được thể hiện qua các điệu múa trong hội. Đó là các điệu múa Mừng năm mới (Tỏn chiêng pi mâứ), múa Cầu mưa, Vêr guông (âu eo), Tăng bu, Tra hạt, Kin lẩu nó (múa xung quanh cây nêu), Uống rượu cần (Ươc bụt xạ).
< Uống rượu cần là để giao lưu trong cộng đồng, cũng là một thể thức nghệ thuật trong điệu xoè “ Ươc bụt xạ” và kết thúc ngày hội Mah grợ của cư dân Khơ Mú Tây Bắc.
Những điệu múa Vêr guông (múa Âu eo), Tăng Bu, Tra hạt… của người Khơ Mú Nong Lay uyển chuyển, nhịp nhàng, sôi động. Các động tác trông như lắc cái mông, uốn cái eo, xoay dần xuống rồi xoay dần lên. Nhưng nó là uốn cái lưng là chính. Bởi bà con nói vui rằng: Vì người Khơ Mú lao động làm nương, cúi còng lưng nhiều quá, cái lưng như muốn dứt ra, nên phải “uốn lại” cái lưng, “sửa lại” đôi đầu gối cho khoẻ thành điệu múa thôi mà.
Du lịch, GO! -Theo Điêu Chính Tới, BEE
0 nhận xét :
Đăng nhận xét