Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012

Gần 8.000 thành viên tham gia trên diễn đàn trực tuyến, với gần 200 thành viên tích cực, thường xuyên tổ chức các chuyến đi dài hàng trăm km bằng xe đạp. Đó chính là Ê mông.

Chinh phục bằng “ngựa chiến” 

Ê mông (eMông) thực sự là một cái tên đã quá quen thuộc với các bạn trẻ yêu thích du lịch khám phá, đặc biệt là những ai thích “phượt” bằng ngựa sắt. Dù có khó khăn như thế nào, thì cũng có quá nhiều lý do để eMông trung thành với chiếc xe đạp trong những chuyến đi trong suốt 4 năm qua.
Với xe đạp, không quá chậm để có thể đến được đích, không quá nhanh để có thể cảm nhận được những nét đẹp trên suốt chặng đường đi. Mệt thì có thể dắt xe thong dong trên đường, nhẹ nhàng và không cồng kềnh như các phương tiện khác. Xe đạp cũng có thể theo họ tiến vào bất cứ cung đường nào, dù là chật hẹp hay lầy lội nhất.

Thêm vào đó, đi xe đạp chính là một cách tăng cường, luyện tập cho sức khỏe bản thân. Là cách bảo vệ và tuyên truyền bảo vệ môi trường hiệu quả nhất. Chuyện xả rác trên đường đi với các thành viên eMông không bao giờ xảy ra. Sau mỗi giờ phút nghỉ ngơi, họ luôn thu gom lại vật dụng, kể cả rác thải vào các túi nilon và mang theo trên đường.

Hạnh phúc của chuyến đi là ở quãng đường chứ không phải đích đến

Du lịch bằng xe đạp, thậm chí là cả những chuyến đi xa hàng ngàn km, vượt qua suối, đèo hiểm trở. Chỉ cần nghe như vậy thôi đã đủ thấy chuyến đi sẽ vất vả như thế nào rồi. Vậy mà thành viên eMông cứ ngày một tăng lên theo cấp số cộng, đặc biệt hơn nữa, eMông không thiếu các bạn nữ, thậm chí, rất nhiều nữ nhi eMông còn là người khởi xướng những chuyến đi đầy táo bạo này.

Nếu như bạn cứ băn khoăn, đi đường xa bằng xe đạp sẽ vất vả lắm, sẽ phải chuẩn bị nhiều thứ lắm, sẽ cần sức khỏe tốt lắm, phải luyện tập nhiều lắm… để rồi bỏ qua chuyến đi mà bạn chưa từng tham gia, như vậy là bạn đã thua chính bản thân mình rồi.

Thành viên eMông không thế, họ coi xe đạp là phương tiện chứ không phải mục đích. Họ thích khám phá bằng xe đạp chứ không để chuyện đạp xe sẽ khó khăn như thế nào quẩn quanh trong ý nghĩ. Cứ xách balô lên vai, leo lên chiếc xe đạp và đi thôi.

Mệt thì sẽ nghỉ, có thể ngã nhưng rồi lại đứng dậy, khi nào đói tất cả dừng lại ăn, khi nào màn đêm buông xuống thì cùng nhau dừng chân. Hành trình trên đường không thiếu những nụ cười và cái nhìn khám phá mới, cứ như thế cho đến khi đích trước mặt hiện ra. Và họ biết được rằng mình đã chinh phục được con đường này, chinh phục được nỗi sợ hãi ban đầu sẽ chẳng thể làm nổi. Chỉ là du lịch thôi, nhưng trên chiếc yên xe ấy, với họ là cả một triết lý sống.

“Chúng tôi đã chinh phục thành công Tây Côn Lĩnh với bánh mỳ trong balo và nước suối trên đường đi. Không một tấm bản đồ hay một người dẫn đường nào, chúng tôi vượt qua gần như tất cả những khó khăn: leo dốc sỏi đá, rẽ cây rừng lấy lối đi trong đêm mù mịt mưa gió. Bao lần vấp ngã, bao lần cả người lẫn xe trong đám bùn lầy, tay chân mặt mũi trầy xước bởi đủ thứ... Không phủ nhận đã có thật nhiều lúc mỗi cá nhân chùn bước, nhưng cuối cùng, chúng tôi cũng đã vượt qua.

Sẽ không ai trong chúng tôi quên được cảm giác tuyệt vời, cảm giác khi sáng mở cửa lều nhìn ra ngoài thấy bên kia biển mây là mặt trời le lói leo lên qua đỉnh Tây Côn Lĩnh.” Anh Long – admin của emong.org và cũng là thành viên của CLB eMông nhớ lại những ngày tháng chinh phục Tây Côn Lĩnh trên chiếc xe đạp.

Teen mê mẩn phượt bằng... "xế điếc"

Du lịch, GO! - Theo Nguyễn Hằng (Kienthuc)
Núi Phú Thọ (còn có tên núi Đá, núi Thạch Sơn) tọa lạc tại xã Nghĩa Phú, huyện Tư Nghĩa, cao chừng 60m so với mực nước biển.
Nằm cạnh cửa biển Đại Cổ Lũy, núi Phú Thọ như một đồn lũy thiên nhiên án ngữ cửa biển quan trọng bậc nhất tỉnh Quảng Ngãi.

Sở dĩ gọi là núi Đá vì trên núi có nhiều khối đá granit xám có kích cỡ và hình dạng khác nhau. “Nhất bộ dị trạng” (mỗi bước một đổi thay hình dạng) là cách nói diễn tả vẻ đẹp độc đáo của núi đá Phú Thọ ở mỗi góc nhìn, mỗi khoảnh khắc thời gian. Đây là cấm Bầm Buông, với những khối đá chồng hoặc xếp dọc bên nhau như có bàn tay sắp đặt của tạo hóa để thành đá Trống, đá Chuông, khi gõ vào phát ra chuỗi âm thanh trầm bổng diệu kỳ. Còn kia là gò Đá Trận, lô nhô đá nhỏ, đá to bên sườn đồi, ẩn hiện bóng cây, bóng lá.

< Đá Hòn Chồng.

Kỳ thú là chùa Hang thiên tạo với hai khối đá dựng lên làm trụ, đỡ một tảng đá lớn nhô ra phía trước trông tựa mái hiên. Rêu phong phủ đầy vách đá tạo nên vẻ u tịch hoang sơ. Giữa ngày hè nóng bức, hang đá mát rượi. Rễ cây đa cổ thụ lách qua kẽ đá dẫn từng giọt nước trong veo rơi tí tách xuống lòng hang. Tương truyền, ngày trước ở hang đá này, cứ đến rằm tháng 7 âm lịch có một con hổ to, lông đủ màu sắc, lặng lẽ xuất hiện trước sân chùa, chẳng mảy may làm kinh động đến người và muông thú, dân làng mến mộ gọi là “ông hổ đi tu”. Sách Quảng Ngãi nhất thống chí của tiến sỹ nho học Lê Ngãi viết về ngọn núi này như sau:

‘‘Núi Phú Thọ, ở phía Đông, cách huyện trị (Tư Nghĩa) 11 dặm, Đông giáp cửa bể Cổ Lũy, Tây liền với núi Bàn Cờ, Nam giáp Vũng Tàu, Bắc giáp sông Trà. Núi có những đá to mọc vút lên và nhọn trông như ngón tay trở lên. Đời Tự Đức đặt pháo đài ở đỉnh núi này để phòng giặc bể. Thiệt là một tòa núi đứng trấn cửa bể to.” (Quảng Ngãi nhất thống chí – bản Quốc ngữ, chép tay).

Đứng trên đỉnh núi Phú Thọ, du khách có thể phóng tầm mắt bao quát một vùng thiên nhiên rộng lớn. Vào những buổi bình minh, khi mặt trời ửng hồng từ từ nhô lên trên mặt biển bao la cũng là lúc những con thuyền nan cửa Đại sau một đêm ngủ mơ trong giấc sóng bỗng khe khẽ cựa mình, chầm chậm nối nhau ra biển đón đoàn thuyền đánh cá trở về trong dìu dịu sương mai. Xa xa, hơi chếch về phía Bắc là mũi Ba Làng An. Xa hơn nữa, ghé về Đông, nhấp nhô trên sóng là cù lao Ré. Sông Trà Khúc bên kia, sông Vệ bên này ùa nước vào nhau để thênh thang cửa Đại.

Theo hồ sơ của Bảo tàng Tổng hợp Quảng Ngãi, phế tích thành Bàn Cờ trên núi Phú Thọ có hình thang cân, cạnh trên 52m, đáy 60m, cao 25m, diện tích mặt thành khoảng 500m2. Bờ thành Bàn Cờ vốn được xây bằng gạch. Trên mặt thành có tháp Chăm, nhưng nay đã bị phá, chỉ còn ngổn ngang gạch vỡ. Thành Bàn Cờ hợp với thành Hòn Yàng và lũy Cổ Lũy thành hệ thống phòng thành, bảo vệ thành Châu Sa (phía tả ngạn sông Trà Khúc), nên thường được các nhà chuyên môn gọi chung là hệ thống phòng thành Cổ Lũy.

< Phế tích Thạch Sơn tự trên đỉnh núi.

Cũng tại khu vực Cổ Lũy – Phú Thọ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện nhiều di tích thời tiền Champa, có niên đại từ thế kỷ III đến thế kỷ VII. Năm 2004, một cuộc khai quật đã được tiến hành. Trong hố khai quật hiện rõ các chân móng cột nhà lớn, có gia hạ bằng gạch vỡ và đá cuội. Hiện vật tìm thấy gồm các vật liệu kiến trúc (ngói lòng máng, gạch, chóp nóc...) và đồ gia dụng (nồi, hũ kendi, chân đèn, bát...). Các nhà nghiên cứu cho rằng, vật liệu kiến trúc ở đây (ngói lòng máng, đầu ngói ống trang trí mặt hề, chóp búp sen...) khá giống với các vật liệu tương tự ở Trà Kiệu, Thành Hồ...

Núi Phú Thọ, thành Bàn Cờ, thành Hòn Yàng còn gắn với nhiều giai thoại kỳ thú. Chuyện rằng, vào những đêm trăng thanh vắng, các nàng tiên trên thượng giới thường bay xuống thành Bàn Cờ mà ngắm cảnh, đùa trăng. Còn ở thành Hòn Yàng thi thoảng lại thấy “vàng Hời” chấp chới trong đêm như thể ma trơi.

< Cổ Lũy cô thôn.

Năm 1903, sau chuyến đi chầu hầu sang Pháp, Nguyễn Thân (1853 – 1914) xin về trí sĩ, bỏ quê cũ ở Thạch Trụ (Mộ Đức), chiếm cứ cả núi Phú Thọ và nhiều đất đai quanh vùng, xây dựng dinh cơ, đình tạ, đưa cả gia đình đến đây sinh sống, thỏa lòng dạ ham muốn công danh của một kẻ bán nước cầu vinh. Nhưng sự thể của gần 40 năm sau thì khác. Cuộc vùng dậy dữ dội và quyết liệt tháng 8 năm 1945 đã quật nhào bộ máy thống trị thực dân - phong kiến ở Quảng Ngãi và khắp cả nước. Trong cơn phẫn uất, người dân quanh vùng đã đập phá toàn bộ dinh cơ của Nguyễn Thân trên núi Phú Thọ.

Năm tháng đi qua, mặc cho những đổi thay nhân thế, núi Phú Thọ vẫn sừng sững trấn giữ một vùng hải khẩu; thôn Cổ Lũy vẫn còn đó dáng vẻ tịch mịch, u trầm của một làng quê trước biển sau sông đã đi vào tâm khảm bao thế hệ người Quảng Ngãi.

Núi Phú Thọ đã được Bộ Văn hóa, Thông tin và Thể thao (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) công nhận là Di tích lịch sử văn hóa quốc gia, tại Quyết định số 43- QĐ/VH ngày 7/1/1993.

Du lịch, GO! - Theo Lê Hồng Khánh (báo Du Lịch), internet
Khánh thành gần 10 năm trước, tháp đá Vĩnh Nghiêm nằm trong khuôn viên tổ đình Vĩnh Nghiêm trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa (TP.HCM), là ngôi tháp xây bằng đá đầu tiên ở khu vực Nam bộ.

Tổ đình Vĩnh Nghiêm có nguồn gốc từ chùa Vĩnh Nghiêm ở thôn Đức La, Bắc Giang - Trung tâm thiền học Phật giáo đời Trần. Do vậy, kiến trúc đời Trần là nét chủ đạo trong điêu khắc tháp đá tổ đình Vĩnh Nghiêm.
Ngôi bảo tháp đá được đặt tên “Vĩnh Nghiêm tháp”, là tháp thờ cố đại lão hòa thượng Thích Thanh Kiểm, một trong hai vị cao tăng đã xây dựng nên tổ đình Vĩnh Nghiêm (hòa thượng nguyên trưởng Ban kinh tế tài chính Trung ương Giáo hội Phật giáo VN, viện chủ tổ đình Vĩnh Nghiêm).

Ngôi tháp bảy tầng (theo ý nghĩa “thất cấp phù đồ”) cao 14m có tiết diện như hầu hết các tháp được xây dựng nghìn năm nay trên đất nước ta: hình vuông, mỗi cạnh 5x5m; nằm giữa dãy lan can cũng bằng đá vuông vức mỗi chiều 9,5m; đặt trên một bệ tháp bát giác (“bát chính đạo”).

Năm bậc cấp từ hai cột chính bằng đá bước lên tòa tháp tượng trưng cho “ngũ căn, ngũ lực” của nhà Phật. Trên thân tháp có một cặp rồng lớn, 27 cặp rồng nhỏ và những cánh phượng uốn mình rất hoành tráng.

Trên từng tầng tháp là hàng ngàn những cánh sen, hoa sen, thủy ba (sóng nước), lá đề, dơi, câu đối, câu chú...
Ngoài chữ thọ theo lối chữ “triện” ở tầng tháp đầu tiên theo phong cách đời Lý, còn lại là những họa tiết, điêu khắc điển hình đời nhà Trần.

Đôi rồng đời Trần hai bên trụ cổng thật vạm vỡ, cơ gân cuồn cuộn, vảy đều tăm tắp, cặp sừng cong, bờm cuộn sóng, cổ vươn cao ngạo nghễ hào khí Đông Á.

Tháp tọa lạc ở một vị trí khá hài hòa trong tổng thể nhiều khối kiến trúc đồ sộ của tổ đình Vĩnh Nghiêm: cạnh lầu chuông bên trái chùa, cân xứng với ngôi tháp Quán Thế Âm bên phải chùa vốn cũng rất đẹp, có từ khi xây dựng tổ đình (1964).

Toàn ngôi tháp như một ngọn bút dựng đứng giữa trời, hoành tráng, phủ kín hoa văn chạm trổ mà vẫn nhẹ nhàng.

Du lịch, GO! - Theo Lâm Anh (Tienphong)
Ngoài những địa danh trong câu thơ: “Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa, có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh”, bạn không nên bỏ qua những cửa khẩu nổi tiếng, chợ biên giới hay đỉnh Mẫu Sơn.

< Thành nhà Mạc ở Lạng Sơn.

Truy nguyên từng địa danh trong hai câu thơ trên thì Đồng Đăng là tên của một thị trấn giáp biên giới giữa nước ta và Trung Quốc, nằm trên quốc lộ 1A. Đến Đồng Đăng, bạn sẽ được chiêm ngưỡng ga cùng tên, ngắm tuyến đường sắt liên vận quốc tế sang Trung Quốc và từ đó đi các nước khác. Ngoài ra, đến đây, bạn còn sống lại những giây phút hào hùng của chiến trường, nơi từng diễn ra cuộc chiến đấu ác liệt trong chiến tranh biên giới phía Bắc 1979.

< Chùa Tam Thanh.

Phố (chợ) Kỳ Lừa nằm ở trung tâm thành phố Lạng Sơn là một trung tâm mua bán sầm uất, đồng thời cũng là nơi giao lưu văn hóa của các dân tộc ít người trong khu vực và các tỉnh lân cận. Tô Thị, ngọn núi có hình dáng như bà mẹ bồng con lại gắn liền với mối duyên tình oan nghiệt của hai anh em ruột, và lòng thuỷ chung son sắt của người phụ nữ Việt Nam.

Chùa Tam Thanh, ngôi chùa nằm trong động núi đá thu hút du khách với vẻ đẹp của một bức tranh thiên nhiên hài hòa, tượng phật A Di Đà tạc nổi vào vách đá từ thế kỷ XV, hồ Âm Ti trong xanh quanh năm với muôn trùng nhũ đá thiên tạo từ ngàn xưa.

<Ải Chi Lăng.

Ngoài 4 địa danh trên, Lạng Sơn cũng mê hoặc bạn với một ải Chi Lăng hoành tráng, đồ sộ và hiểm trở của những dãy núi đá độc lập, cao chót vót tạo thành thế bí hiểm, nơi gắn liền với các danh tướng như Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Phò mã Thân Cảnh Phúc, Thế Lộc, Hoàng Ðại Huề....; một Mẫu Sơn không thua kém Sapa về vẻ đẹp, về cuộc sống muôn màu của người dân nơi đây; một bến đá Kỳ Cùng, nơi có động chùa Tiên với rất nhiều thạch nhũ nhiều hình dáng, giếng Tiên với mạch nước ngầm trong suốt, thanh mát quanh năm.

< Động Tam Thanh tuyệt đẹp và bí ẩn.

Ở đây còn có khu danh thắng Hang Gió, hang động có chiều dài hàng trăm mét, rộng từ 50 - 70m, nơi được đánh giá như thiên đình ở hạ giới; động Nhị Thanh với  đẹp  kỳ vĩ và chùa Tam Giáo uy nghiêm, cùng hàng loạt những di tích lịch sử nổi tiếng như Thành Nhà Mạc, di tích Đoàn Thành Lạng Sơn, chùa Thành, đền cửa Đông, đền cửa Tây, đền Tả Phủ.

Bạn cũng không nên bỏ qua cơ hội tham quan 4 cửa khẩu là Chi Ma (Huyện Lộc Bình), Bình Nghi (Huyện Tràng Định), Tân Thanh (Huyện Văn Lãng), Cốc Nam (Huyện Cao Lộc) hay 7 cặp chợ biên giới với Trung Quốc.

Di chuyển

Phần di chuyển bắt đầu từ Hà Nội, các bạn ở miền Trung hay miền Nam chịu khó xem đây là điểm trung chuyển. Riêng những bạn ở miền Bắc, chịu khó tham khảo thông tin về lịch trình đến Lạng Sơn ở bến xe mỗi tỉnh.

Bằng phương tiện công cộng:

Tại Hà Nội có hai phương tiện để đến Lạng Sơn là xe đò (mua vé tại bến xe Mỹ Đình, tại hãng xa Hoàng Long) hay tàu lửa. Theo kinh nghiệm của dân du lịch bụi và các thổ địa thì đi tàu lửa sẽ nhìn thấy nhiều cảnh đẹp hơn.

< Chùa Tam Thanh, núi nàng Tô Thị, hai trong bốn danh thắng đi vào lòng người của Lạng Sơn.

Lưu ý bạn nên tham khảo giá vé, thời gian xuất phát của cả hai đầu, những địa danh có thể đi qua để tiết kiệm thời gian di chuyển.

Bằng phương tiện cá nhân:

Thành phố Lạng Sơn cách Hà Nội 154km, cung đường hoàn toàn thích hợp cho một chuyến dạo chơi cuối tuần.

< Vẻ thơ mộng của đường lên Mẫu Sơn vào một sáng mùa hè.

Lưu ý khi di chuyển bằng phương tiện cá nhân nên mang theo đầy đủ giấy tờ xe. Chấp hành tốt luật an toàn giao thông đường bộ. Mang bao tay, khẩu trang, kính để đảm bảo an toàn khi đi đường. Trang bị điện thoại có chức năng google map để tiện di chuyển.

Đến vào mùa nào?

Bạn có thể đến Lạng Sơn bất kỳ thời điểm nào trong năm. Nhưng nếu thích ngắm tuyết hay cảm nhận cái lạnh nên đến vào mùa đông (Mẫu Sơn).

Lưu trú

Khu vực trung tâm Lạng Sơn gồm hai đường là đường 1 và đường 4A. Bạn nên lên lịch trình tham quan cụ thể để dễ chọn địa điểm lưu trú.

< Cũng cung đường đó, vào mùa đông lại lung linh và huyền ảo.

Một số cái tên bạn có thể bỏ túi trước khi đến đây là khách sạn Bắc Sơn, Kim Sơn, Đông Sơn… Lưu ý đặt phòng trước khi đến.

Đặc sản Lạng Sơn

Lạng Sơn có các đặc sản sau: măng muối ớt móc mật, thịt (heo, vịt) quay mắc mật, phở chua, bánh cuốn trứng, bánh Cao Sằng, bánh bí đỏ, bánh lạc, na (mãng cầu) Đồng Bành, táo mèo.

Mang gì khi đến Lạng Sơn?

Bất kỳ trang phục nào bạn thích song nên mang giày, dép trệt để tiện di chuyển.

< Vịt và heo quay quả mắc mật, hai trong những món đặc sản bạn không nên bỏ qua khi đến Lạng Sơn.

- Mang đồ chống nắng và dụng cụ đi mưa tùy theo mùa.
- Mang hộ chiếu nếu muốn tham quan hay qua cửa khẩu.
- Mang kem chống muỗi, thuốc trị côn trùng, thuốc trị các bệnh cơ bản.

Các cung đường thường gặp

- Sài Gòn/Hà Nội – Lạng Sơn Bắc Kạn
- Sài Gòn/Hà Nội – Lạng Sơn Quảng Ninh
- Sài Gòn/Hà Nội – Lạng Sơn Bắc Giang
- Sài Gòn/Hà Nội – Lạng Sơn Thái Nguyên

Du lịch, GO! - Theo Infonet
Theo lời kể của người dân xã Lạc Vân (huyện Nho Quan - Ninh Bình), động Nham Hao mới được phát hiện có chiều dài khoảng 3 km nằm dưới lòng núi. Bên trong có một ngôi chùa cổ và 5 tấm bia được khắc trên vách đá bằng loại hán tự chưa rõ niên đại.

Khi có thông tin tại huyện Nho Quan người dân vừa phát hiện được một hang động thuộc loại đẹp nhất miền Bắc, có thể được ví với Phong Nha - Kẻ Bàng, chúng tôi đã quyết định về đây để xem thực hư thế nào. Lạ nước, lạ cái chúng tôi đành ghé qua UBND xã để nhờ người dẫn đường. Thật trùng hợp khi đề cập chuyện muốn tìm hiểu về vấn đề trên, anh Quách Văn Thái công an viên xã Lạc Vân đã đồng ý dẫn đường cho chúng tôi.

Truyền thuyết ngôi đền cổ

Theo anh Thái, hang động mà chúng tôi muốn tìm hiểu có tên là động Nham Hao. Đường vào thạch động quanh co phức tạp theo những dải núi đá vôi cheo leo và vách núi dựng đứng. Nếu không phải người địa phương chắc chắn không thể vào động được. Anh Thái còn cho biết muốn vào được bên trong cần phải qua cửa hang chính bằng thuyền bơi trên hồ rộng khoảng 1 sào rồi cứ theo hướng nước bơi thuyền vào động. Vì là người thông thạo địa hình nên chẳng mấy chốc anh Thái đã đưa chúng tôi vào bên trong hang động.

Những người đi trong đoàn không khỏi trầm trồ bởi vẻ đẹp thiên nhiên vô cùng tráng lệ nơi đây. Phía trong động là những nhũ đá có hình thù kỳ dị, voi chầu, hổ phục, ao cá đồng lúa, nương dâu, rồng cuộn nước, rồng vàng ấp tổ trong hang, tượng Phật Tổ Như Lai, có chỗ lô nhô như ngàn lớp sóng, vân nhũ đá như những đám mây ngũ sắc….

Ở phía dưới còn có một vị trí nước sâu và trong vắt người ta gọi là ao cá không đáy tạo nên một bức tranh thủy mặc vô cùng hùng vĩ.

Theo sách “Đại Nam nhất thống chí” (trang 242) có ghi về động Nham Hao như sau: “Núi Tam Động ở cách huyện Yên Hóa 8 dặm về phía Nam gần sát bờ sông, có ba động đá: Một là động Nham Hao (nay gọi là động Ngọc Cao) ở địa phận xã Phục Cổ (nay là xã Lạc Vân) rộng chừng 9 trượng. Dưới động có nước khe chảy thông đến ao cá ở đằng sau động, ao rộng một sào, có nước trong, bên cạnh có đền thờ Tam Phủ, trên đỉnh có một pho tượng đá, người địa phương gọi là Phật Cao Sơn.

Hai là động Phục Cổ và Hiền Quan, chỗ đi vào mở thành hai cửa, giữa rộng 8 trượng, có đá sỏi tròn trĩnh nhỏ bé như hình viên thuốc, người địa phương dùng để chữa bệnh, cũng có công hiệu; lại có một đường nước khe, chảy quanh co từ động Nham Hao suốt đến động Bạch.

Ba là động Bạch ở địa phận xã Hiền Quan. Động rộng hơn 10 trượng, đường đi từ động Quang vào, hai bên chập chồng lớp đá, phân nhiều thành hình muông thú, đằng sau có thạch nhủ rũ xuống sâm si; một dải nước khe quanh co từ động Nham Hao chẩy đến sắc nước trong suốt”.

Tương truyền năm Tự Đức thứ 2 (1849) có viên quan tri huyện Yên Hóa tên là Phạm Văn Thể đã đến đây du sơn ngoạn thủy. Trong lúc tuần du ông nhìn thấy có một dáng Tiên cùng với đám mây ngũ sắc thoát ra từ cửa động Nham Hao (tức động Ngọc Cao).

Biết nơi đây có thần linh chế ngự, khi lại gần cửa động ông thấy trên các nhũ đá có nhiều hình hài giống như hình gót chân tiên, đoán đây là một vùng đất linh thiêng nên viên tri huyện đã tự cắt bớt bổng lộc của mình giao cho sở thuộc, khởi công sửa chữa bên trong hai động đặt nơi thờ cúng, xây dựng tòa sen, đắp tượng Phật, làm nơi thờ Thần Thánh gọi là chùa trong, chùa ngoài.

Theo ông Vũ Văn Vượng, Chủ tịch UBND xã, lúc đang còn là học sinh, nghe truyền lại từ những người già trong làng thì khoảng trước năm 1978 có hai nhà sư tên là Thích Đàm Liên và một người nữa chưa rõ danh tính đã từng sống và tu tại đây.

Sau này khi nơi đây thường xuyên xảy ra lụt lội nên hai vị sư đã chuyển về một ngôi chùa ở TP Ninh Bình và viên tịch ở đó. Chùa Tam Phủ đã không còn do mưa nắng, lụt lội phá hủy.

Thực hư kho báu ngàn năm

Tài liệu viết về động Nham Hao quá ít ỏi. Phần lớn những câu chuyện được chắp nối từ lời kể của những bậc cao niên. Theo đó, tại đây, phía trên nửa lưng chừng dãy núi còn có một thạch động nữa mà trước kia là nơi giặc phương Bắc cất giấu kho báu.

Theo lời kể khoảng năm 1960 có một đoàn người lần theo bản đồ cổ tìm đến đây hỏi thăm rồi bỏ đi. Sau đó ít hôm người ta phát hiện có dấu vết dùng thang tre leo lên cửa động và chỉ thấy vết đi vào mà không có dấu trở ra.

Có người phỏng đoán có thể động này được thông ra ngoài cùng với một động phía sau núi mà không ai biết. Cũng có người cho rằng do tham lam nhóm người này đã lấy trộm kho báu của thánh thần nên đã bị trừng phạt không có đường trở ra.

Về câu chuyện đượm màu thần bí này, ông Vũ Văn Vượng cho biết: “Động Nham Hao là thạch động mới được người dân phát hiện cách đây không lâu. Động sâu đến 3km trong lòng núi và có nước do đó hàng trăm năm qua ít ai biết đến sự bí ẩn của nó. Hiện nay lãnh đạo xã đang tìm lại một số nguồn tài liệu có ghi chép những sự tích và một số câu chuyện còn truyền trong dân gian”.

Tuy nhiên, theo ông Vượng câu chuyện bí mật về kho chỉ là sự đồn thổi và phỏng đoán của người dân chứ không có căn cứ.
Trên vách đá dựng đứng cách cửa hang chính khoảng 15m có một cửa động nữa. Chỉ có điều chưa ai leo lên được hang đó để xác minh thực hư.

Du lịch, GO! - Theo VTC

Thứ Năm, 30 tháng 8, 2012

Mắm là món ăn hết sức đặc trưng của người Khmer. Đó chính là kết quả tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên, lấy những nguyên liệu từ tự nhiên để chế biến thành một món ăn theo cách riêng.

< Mắm pro-hốc (bồ hóc).

Đối với bà con Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long, mắm không chỉ là một món ăn không thể thiếu trong cơ cấu bữa ăn hàng ngày mà nó còn là một thứ gia vị đặc biệt, đôi khi mang tính bắt buộc trong việc chế biến một số món ăn.
Mắm pro-hốc là món ăn điển hình. Mắm pro-hốc có thể được làm từ nhiều loại cá nhỏ, như: cá sặt, cá chốt, cá lòng tong... hoặc những loại cá lớn, như: cá trê, cá lóc...

Người ta lựa những con cá lóc còn tươi đem đánh vẩy, mổ bụng ra rồi rửa cho sạch nhớt đem ngâm nước lạnh một đêm, vớt ra đem phơi nắng cho ráo nước. Sau đó người ta ướp muối, trộn với cơm nguội, đem cho vào hũ, hoặc khạp, rải muối hột vào rồi gài cứng, đậy nắp lại, để khoảng từ bốn tháng đến sáu tháng là ăn được. Có thể để nguyên con đem kho, hoặc ăn sống; hoặc cho vào ít lá chanh, lá gừng xắt nhỏ, ớt, đường, và chanh chưng.

Còn có loại mắm chua gọi là pò-ót, được làm từ tép mòng - một loại tép rất phổ biến ở Đồng bằng sông Cửu Long. Khi ăn, người ta trộn với đu đủ, riềng hoặc gừng non. Pò-ót làm khoảng 10 ngày là ăn được.

Mắm pro-hốc có hai loại: mắm cá nhỏ gọi là pro hoc trey changvar, gồm tất cả các loại cá trắng, đen, như các loài: sặt, trèn, chốt, lòng tong, cá chạch đất,...; mắm cá lớn gọi là pro hoc trey thom gồm các loại cá lóc, cá bông, đặc biệt là cá trê vàng.

Để làm mắm pro-hốc đầu tiên là làm sạch cá: đánh vảy, chặt kỳ, mổ bụng bỏ sạch ruột. Để cá chảy hết máu rồi rửa nhiều lần, chừng nào thấy nước trong mới thôi. Nếu cá làm không sạch, còn máu hoặc nhớt, vảy dơ cá sẽ thối, đắng ăn không được.

Cá làm sạch cho vào cái vịm nước (vật dụng làm bằng sành, sứ - như cái thau) ngâm nước một đêm, sau đó vớt ra rổ để ráo nước và đem phơi nắng một ngày. Muối hột rửa cho trắng (bỏ tạp chất làm cho muối có màu đen, sẫm), cho vào cối giã nhuyễn rồi trộn với cá. Lượng muối nhiều hay ít là do kinh nghiệm của người làm. Chất lượng mắm cũng từ đó mà xác định. Bỏ ít muối (lạt muối) thì cá sẽ sình, hoặc ngược lại bỏ nhiều muối mắm quá mặn.

Trộn muối với cá xong, bỏ cá vào cối quết nhẹ bằng chày cây. Khi quết cho thêm cơm nguội vào tán nhừ, ước chừng một tô mắm thì hai muỗng cơm. Quết xong, múc cá ra rổ để cho nước rỏ xuống. Phía trên mắm lót ít lá chuối tươi, lấy gạch đá dằn lên khoảng một ngày đêm cho nước trong mình cá chảy ra hết. Ngày sau, người ta xếp mắm vô hũ hoặc tỉn đã rửa sạch để khô, nhận ém thật cứng, phía trên gài bằng mo nang dừa, trên cùng gài mắm bằng các dọc dừa già chẻ vừa mặt dụng cụ nhận mắm. Trên đổ nước muối. Quan trọng là phải ém mắm cho kỹ không để nước muối lọt xuống thấm vào mắm. Khoảng từ 4 đến 6 tháng trở lên giở mắm ra là ăn được. Mắm pro-hốc để càng lâu, càng ngon.

Mắm pro-hốc được người Khmer dùng nêm cho gần hết các món ăn. Hoặc ăn riêng thì chưng, kho, chiên,... Một nồi xiêm lo, một nồi nước lèo thì đồ nêm tất nhiên không thể thiếu mắm pro-hốc!

Xiêm lo cũng là một món canh tiêu biểu trong văn hóa ẩm thực của người Khmer khác với tất cả các loại canh của người Việt hay người Hoa. Nấu món canh này người ta dùng thịt, cá tươi và rau ngổ, chuối rém, hoặc trái đu đủ non và được nêm bằng mắm pro-hốc. Canh xiêm lo còn được nấu với nhiều loại rau như: lá bồ ngót, lá bình bát dây, bông điên điển, đọt bí, đọt bầu, cùng với măng, mướp, khoai môn, khoai lang, bầu, bí đao, rồi rau đắng... Canh xiêm lo cũng có nhiều loại khác nhau như xiêm lo mít, xiêm lo bình bát... Mỗi loại canh đều thể hiện sự phong phú, tài khéo léo của bà con Khmer.

Bà con Khmer còn có một số món canh độc đáo khác, như: canh chua nấu với trái chuối xiêm xanh. Người ta tước bỏ vỏ chuối xiêm xanh, xắt hơi dày, nấu với cá và thịt gà, thêm cơm mẻ và các loại rau om, tần dày lá, ngò gai, sả và mắm pro-hốc. Canh chua nấu bằng bắp chuối thái mỏng với cá khô và lá me non...

“Người nội trợ Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long còn nhớ rất nhiều món canh quen thuộc của dân tộc mình, đặc sắc nhất là các món canh xiêm lo ko-kô tức canh thập cẩm, được nấu với nhiều loại rau rừng và rau đồng như rau cỏ chai, cải trời, rau đắng, rau ngổ, rau chóc, rau chay, rau bợ, rau chuối, khổ qua, đu đủ non... cùng các loại tôm, thịt, cá và các thứ gia vị như sả, ớt, thính, củ gừng, củ riềng, bột cà ri, dừa khô, mắm pro-hốc... Hoặc như món xiêm lo prohơ cũng là một loại canh nấu với thịt hoặc cá với gia vị là mắm pro-hốc, sả, ớt, ăn với gỏi đu đủ, dưa leo chấm với nước chua là cơm mẻ (một loại vi khuẩn trong cơm nguội để lên men) v.v...”.

Đặc biệt, món bún nước lèo của người Khmer được cả người Việt và người Hoa ưa thích - đã trở thành một đặc sản chung của cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, được nhiều du khách phương xa thưởng thức và nhớ mãi. Để nấu món này, người ta dùng tôm, cá nấu nhừ lấy nước cốt, đem cá ra rút hết xương, nước cốt của cá được nêm muối ớt, sả... và hai món nêm không thể thiếu là ngải bún giã nhỏ và mắm pro-hốc. Nước cốt sau khi nêm và nấu kỹ đã trở thành một thứ nước lèo rất tuyệt hảo.

< Đường thốt nốt.

Cũng như các dân tộc khác ở Đồng bằng sông Cửu Long, người Khmer cũng có nhiều món bánh. Bánh ngọt có mặt gần như hầu hết trong các dịp lễ hội của người Khmer. Tiêu biểu các loại bánh: bánh củ gừng, bánh tai yến... nhưng đặc sắc hơn cả có thể nói là bánh thốt nốt. Đó là, nguyên liệu được làm từ trái thốt nốt, mà trái thốt nốt chỉ có nhiều ở những khu vực đông đảo người Khmer sinh sống.

Người ta bẻ trái thốt nốt xuống, sau đó đem chà vào rổ để lấy bột, rồi đem bột này trộn với bột gạo, thêm chút dừa nạo, sau đó lấy lá thốt nốt gói lại, rồi sau đó đem hấp. Bánh có màu vàng ươm, có mùi thơm hết sức đặc biệt vị ngọt tinh khiết, vị béo của dừa rất ngon. “Người Khmer từng tự hào về các loại bánh ngọt cổ truyền của dân tộc mình vì nó chiếm một số lượng khá phong phú, lại vô cùng độc đáo. Bánh ngọt giữ một vị trí khá quan trọng trong đời sống của người Khmer vì nó không thể vắng mặt trong tất cả các dịp lễ, Tết, cúng bái theo phong tục.”2 Bánh ngọt của người Khmer gồm một số loại tiêu biểu sau:

* Num còn khuyên

Người Việt gọi Num còn khuyên là bánh rế. Bánh làm bằng đậu xanh, đậu nành và nếp. Mỗi thứ lấy trọng lượng bằng nhau, vo sạch, để ráo rồi đem rang riêng. Rang để lửa nhỏ, đến khi vừa vàng thì đổ ra, sau đó trộn cả ba thứ vào chung, vọt nát như xây thín.

Nước đường thốt nốt thắng đến rít lại, bỏ bột đã vọt nhuyễn vào quậy đều như nhân bánh ít, đem ra nắn hình tròn như cá mâm có chân, gọi là bánh rế.
Lấy bột gạo, ít nhiều tùy theo kinh nghiệm của người làm bánh, trộn trong thau, cho bột nghệ xay vào để tạo màu vàng, đổ nước vào quậy sền sệt, đem từng cái bánh rế nhúng vào rồi chiên với mỡ. Bánh vàng, vớt ra để ráo, ăn giòn ngon.

* Num Crọp Khnô

Num Crọp Khnô nghĩa là bánh hột mít. Bánh làm đậu xanh nấu mềm, đãi bỏ vỏ, giã nhuyễn trộn với đường thốt nốt như nhân bánh ít. Sau đó, dùng tay vắt viên tròn như hột mít, lăn vào tròng đỏ trứng vịt, gà. Sau đó, đem chiên giòn. Ăn khi ráo mỡ.

* Num chô

Bánh làm bằng gạo trắng vọt sạch, để ráo rồi cho vào cối vọt nhừ nát, khi vọt dùng sàng rây nhiều lần để giã lại cho thật nhuyễn, bột càng nhuyễn, bánh càng nổi to. Nước đường thốt nốt thắng đến rít lại, bỏ bột gạo vào quậy đều như nhân bánh ít, đem ra nắn từng cái hình tròn hay vuông, dẹp lớn nhỏ tùy ý. Sau đó, bỏ vào chảo mỡ chiên. Bánh sẽ nổi lớn như bánh tiêu của người Tiều (Triều Châu). Bí quyết độc đáo của loại bánh này nằm ở lượng đường ngào, nếu không ngọt thì bánh sẽ tan trong chảo chiên, ngược lại ngọt quá, bánh sẽ chai, không nổi, ăn không ngon.

* Num Khnhây

Num Khnhây là bánh gừng. Nếp trắng vo sạch, để ráo đem quết thành bột, khi quết dùng sàng rây nhiều lần để giã cho thật nhuyễn, bột càng nhuyễn, bánh càng nổi lớn. Bột giã xong, đem phơi cho thật khô. Sau đó, lấy lòng trắng trứng vịt đánh nổi, cho bột vào quậy đến sền sệt, sau đó nắn thành hình củ gừng (có người nắn hình cá, hình chim, cua, tôm,...). Bánh gừng chiên bằng mỡ. Bánh nổi lớn, sau đó ngào với nước đường thốt nốt thắng sền sệt. Bí quyết của cách làm bánh này là khi cho bột vào lòng trắng trứng vịt sau cho vừa phải liều lượng thì bánh mới nổi đều. Khi chiên phải lẹ tay lật bánh qua lại.
Bánh gừng thường không thể thiếu trong đám cưới của người Khmer.

* Num Niềng Nóc

Num Niềng Nóc nghĩa là bánh của Nàng Nóc, theo các bậc trưởng thượng thì Nóc là tên người đầu tiên làm thứ bánh này. Người Khmer sau đó lấy tên người đặt cho tên bánh như để ghi công cho nàng. Gạo đem vo sạch, ngâm trong nước độ một đêm, sau đó quết thành bột, đổ nước sền sệt, lấy màu vàng của nghệ, màu đỏ của gấc pha vào cho đẹp mắt.
Nhân làm bằng đậu xanh quết nhuyễn trộn với đường thốt nốt, nước cốt dừa.

Bắc chảo lên bếp, cho mỡ vào. Đợi mỡ gần sôi thì lấy bột nhúng vào kéo lên, kéo xuống, tréo qua, vắt lại cho đến khi bột giòn thì nắn thành hình hộp như hộp thuốc lá, để nhân ở giữa. Chiên tiếp cho vàng, vớt ra, ăn khi ráo mỡ.

Nhìn chung, các món ăn của người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long tuy không cầu kỳ, nhưng nó phản ánh khá rõ nét đặc điểm văn hóa trong ẩm thực của cộng đồng tộc người này. Đó là quá trình thích ứng, tương tác và tận dụng đối với môi trường thiên nhiên mà đồng bào Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long dễ chế biến ra nhiều món ăn phong phú, mang bản sắc riêng.

Du lịch, GO! - Theo Nguoilaodong, ảnh sưu tầm
Hò…ơ…Ở trên Châu Đốc ngó xuống Vàm Nao...Thấy con cá bông lau nó nhảy nhào vô lưới...Anh ngồi anh chắc lưỡi…Hò…ơ… anh ngồi anh chắc lưỡi…không biết chừng nào mới cưới đặng em !
Câu hò xưa được cập nhật lại, thay vì hò "Thấy con cá đao…" người ta cải biên: "Thấy con cá bông lau nó nhảy nhào vô lưới" nhưng vẫn đảm bảo âm vận, ý nghĩa và nhất là phản ánh rất sát đúng một loài thủy sản đặc hữu của con sông Vàm Nao, thuộc tỉnh An Giang.

Nói cá bông lau là một loài thủy sản đặc hữu của sông Vàm Nao là rất đúng, và cũng rất… không đúng! Bởi lẽ dân số bông lau được phân bố sống rải rác khắp sông Tiền, nhất là trên sông Hậu, có nhiều ở vùng hạ nguồn như miệt Kế Sách, Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Nhưng, đặc biệt là chúng đã chọn sông Vàm Nao làm nơi quần cư với mật độ nhiều hơn những nơi khác.

Dòng Mê Kông chảy vào lãnh thổ Việt Nam chia ra thành hai nhánh gọi là sông Tiền và Sông Hậu. Còn sông Vàm Nao như một dấu gạch ngang của chữ H nối liền hai nhánh Cửu Long giang. Có lẽ nhờ vào địa hình và thủy triều đặc biệt của dòng Vàm Nao mà nhiều loài cá sông về đây trú ngụ, trong đó có 2 loài cá quý hiếm là cá hô và cá bông lau.

Hằng năm, khi nước dưới sông chuyển màu từ đục sang trong, là lúc ngư dân hai bên bờ bước vào mùa đánh bắt cá bông lau. Mùa cá bông lau kéo dài từ tháng 11 năm trước đến cuối tháng 4 năm sau. Vào mùa đánh bắt, xóm làng nhộn nhịp hẳn lên mọi người dồn sức cho việc thả lưới, bắt cá. Trên dòng Vàm Nao, ngư dân chia làm 3 bãi để đánh bắt gồm: “bãi trên" ngang chợ Mỹ Lương, phía trên sông Vàm Nao; “bãi giữa" từ Vàm Trước ngang Chợ Đình đến bến phà Thuận Giang; “bãi dưới" từ bến phà đến cuối sông. Bãi nào cũng có 40 – 50 xuồng lưới.

Từ thời khẩn hoang, người xưa điều có tín ngưỡng “Đất có thổ công, sông có hà bá". Còn đối với những người đánh bắt cá bông lau ở Vàm Nao thì tin sông nước ở đây còn có “Bà cậu". Đánh bắt cá được hay không, bắt được nhiều hay ít cá là do “Bà cậu" có độ hay không? Có nhiều ngư dân, vào con nước đánh bắt hoặc khi đánh bắt được nhiều cá thường âm thầm làm mâm cỗ cúng như là một cách tạ ơn với dòng sông, bến nước đã bao dung cho bao người làm nghề hạ bạc.

Vào mùa cá bông lau, lúc mặt trời chen lặn, sông Vàm Nao bỗng nhộn nhịp hẳn lên bởi vào lúc này hàng trăm ngư dân thả lưới kín sông, cờ hiệu la liệt. Mỗi tay lưới đều có đèn phao mắc theo viền lưới cách nhau khoảng 40m, thế nhưng khi đêm xuống, nếu có dịp theo xuồng lưới ra khơi, phóng tầm nhìn về Vàm Trên hoặc Vàm Dưới của sông, phía nào cũng vậy, xa đến mút mắt, đâu đâu cũng đèn là đèn như sát khít nhau, lung linh kỳ ảo lạ thường, ta không thể không cảm nhận đây là “con sông đèn" vô cùng thơ mộng, như dải Ngân Hà ở hạ giới !

Thường thì người ta thả lưới chừng 3-4 giờ đồng hồ và chờ nước nhửn ròng mới kéo lưới. Trong lúc được ngơi tay, từng đoàn xuồng cặp hông nhau trò chuyện. Uống với nhau vài ly trà hoặc nhân nhi vài chun rượu đế cho ấm lòng giữa trời đêm trên sông lạnh giá.

Khi con nước vừa đứng mọi người bắt đầu chuẩn bị kéo lưới. Đây là lúc hồi hộp nhất vì phải chờ đợi suốt nhiều giờ liền. Thường thì một đêm người ta chỉ đánh hai vác, đầu hôm dính cá không nhiều bằng vác khuya. Vào những ngày cao điểm, bình quân một đêm mỗi xuồng lưới bắt được được 4 –5 con, hoặc hơn, mỗi con trung bình nặng từ 4 đến 8 ký. Có con nặng tới 15 ký.

Theo những lão ngư dân ở đây cho biết, vào mùa cá rộ người ta đánh bắt cả ban ngày. Hồi trước ở Vàm Nao ngư dân đánh bắt cá bông lau bằng câu và lưới, nhưng bây giờ chỉ còn dùng lưới mà thôi.

Chuyện kể rằng, cách đây hơn 20 năm, ông Bảy Út ở cồn Bình Thủy giăng câu, lúc móc mồi vô ý bị lưỡi câu móc vào tay và giềng câu bị nước chảy xiết đã kéo ông văng xuống sông. Nhờ có anh em bạn nghề phát hiện kịp thời, quăng dây vớt, khi lên được thì gần chết, may mắn mới cứu sống. Từ đó Bảy Út và một số người khác sợ, bỏ nghề giăng câu cá bông lau trên sông Vàm Nao.

Ngẫm ra, nghề đánh bắt cá bông lau quả thật rất vất vả và có cả sự nguy hiểm giữa sông sâu nước chảy. Nhưng, dòng sông cũng biết bù lại bằng cách dâng tặng cho con người những sản vật hiếm hoi.

Cá bông lau thuộc loại cá da trơn, là cá quý, thịt ngon hơn cá tra, cá ba sa. Cái sang tuyệt vời của nó là nhờ nước da trắng tinh khôi phơn phớt hồng, nên mới gọi “bông lau". Khi mới đánh bắt được, loài cá này có mùi thơm đặc trưng, chứ không hề tanh như tất cả các loại cá khác - độc đáo là ở chỗ đó!

Cá bông lau chỉ có một xương giữa, không xương hom, nên dễ ăn, ngon đáo để là bao tử của nó. Loài cá này có thể chế biến được nhiều món, nhưng do hiếm nên bao giờ người ta cũng tranh thủ thưởng thức lúc cá còn tươi, tức không làm khô, làm mắm như các loại cá khác.

Ở Vàm Nao, hầu như ai cũng biết chế biến mấy món ngon truyền thống như kho lạt, kho mẳn hoặc ướp muối sả chiên tươi. Nhưng làm món gì thì làm chứ các bà các chị không thể không dành ra vài khứa, nhất là khúc đầu cá để nấu cho được nồi canh chua, bởi đó là món đặc trưng nhất và đã định hình, thành danh ít lắm cũng đã từ hơn nửa thế kỷ nay. Có một vài gia đình ở Vàm Nao, đến mùa cá bông lau mà nhà có giỗ quãy thì đãi khách chỉ toàn các món chế biến từ loài cá này – như là một sự biết ơn tổ tiên – những người từng theo nghề hạ bạc và truyền nghề lại cho cháu con!

Xin cám ơn dòng Vàm Nao - nơi hợp lưu giữa hai dòng sông Tiền - sông Hậu cho cá bông lau có chỗ đi về!... Và, đã bao năm rồi, người dân bên đôi dòng quê cứ chờ con nước son của mùa lũ nhạt dần màu hạt phù sa để mà rộn rịp chuẩn bị ghe, lưới…

Rồi khi mùa gió chướng rong ngọn, dịu gió thì ban ngày nhìn mặt sông đầy những ngọn cờ hiệu trôi dạt như trận đồ bát quái. Đêm đến, ngoài ánh trăng, những ngọn đèn lồng của ngư dân đi tìm luồng cá như hoa đăng rải khắp lòng sông. Để rồi, bao thế hệ con người gắn bó với dòng sông, bến nước này đã nhận ra, con cá bông lau là một phần cuộc sống tình cảm trong mỗi người, trong mỗi mái nhà quê soi bóng xuống dòng Vàm Nao yêu dấu!

Du lịch, GO! - Theo Mientayonline
Xã Hàm Ninh cách thị trấn Dương Đông, huyện Phú Quốc 20km về hướng đông bắc. Nơi đây nổi tiếng với làng chài Hàm Ninh, cầu cảng Bãi Vòng và bãi biển xinh đẹp yên bình.

Ðến Hàm Ninh như người hoài cổ trở lại làng xưa. Cuộc sống ở đây gần như còn giữ nguyên vẻ hoang sơ với nhà tranh vách tre tạm bợ. Nghề chính vẫn là nghề lặn ngọc trai, bắt hải sâm (đồn đột) và giăng lưới ghẹ.

Ngày xưa, ngư dân đến đây đánh bắt hải sản rồi lập làng. Khi cửa biển Dương Ðông vang tiếng sóng thì Hàm Ninh là bến đậu ghe yên tĩnh và an toàn. Các ghe buồm, ghe bầu từ đất liền đến cập bến ở đây lên hàng hóa rồi chở hải sản đi.

< Cầu cảng ở làng chài Hàm Ninh.

Trước kia, người dân ở đây sống chủ yếu vào việc đánh bắt hải sản nhưng từ khi du lịch phát triển, người dân làng chài có thêm nguồn thu nhập khác từ việc buôn bán thực phẩm, đồ lưu niệm cho du khách.

Biển Hàm Ninh ra xa vài trăm thước mà vẫn còn cạn. Khi nước ròng, bãi cát mênh mông chạy tít ra xa, lúc nước lên, tràn ngập bãi, vào tận mé rừng.

< Thuyền ghe neo đậu trong một buổi trưa hè yên ả.

Ðứng trên bãi Hàm Ninh, các hòn thuộc quần đảo Hải Tặc (của Hà Tiên) ló dạng xa xa. Chệch về Ðông Nam, hòn Nghệ mờ mờ trên làn nước biếc. Phía Nam là mũi ông Ðội – mũi đất cuối cùng của đảo. Thăm Hàm Ninh vào sáng sớm hay những đêm trăng thì mới hưởng hết vẻ đẹp của biển này. Tại đây du khách sẽ được thưởng thức cảnh nhật nguyệt trôi bồng bềnh trên mặt biển.

< Quả dứa biển ngâm rượu thuốc được bày bán nhiều.

Trưa hè chói chang nắng. Những con thuyền neo đậu trong làn nước biển trong xanh làm du khách như quên đi những bụi bặm chốn đô thành. Sau khi đi tham quan cầu cảng với tàu ghe tấp nập bốc hàng lên - xuống; ngắm nhìn những rong rêu, những chú cá nhỏ bơi lội trong làn nước trong bạn có thể sà vào hàng quán bên đường uống ly nước sâm rong biển mát lạnh để xua đi cái nóng.

Điều khiến du khách thú vị là những món "đặc sản" của làng chài như hải mã sống ngâm rượu, nấm tràm - loại nấm đặc sản của huyện đảo rất bổ dưỡng, quả dứa biển và trái mỏ quạ để ngâm rượu thuốc....
Đây là những đặc sản chỉ có ở Phú Quốc và được nhiều người mua về làm quà.

Nếu một lần đến đây bạn đừng quên chọn mua những con ghẹ Hàm Ninh nổi tiếng chắc thịt đang còn lội tươi rói, đem hấp chấm muối tiêu vừa thưởng thức vừa ngắm biển Hàm Ninh đẹp rực rỡ trong nắng hè. Rời Hàm Ninh, du khách cũng đừng quên mang về vài mươi con ghẹ để tối đến cùng bạn bè nhấm nháp.

Du lịch, GO! - Tổng hợp từ Đan Tâm (TTCN), Dulich Phuquoc
Du lịch đường thủy vốn là một thế mạnh của vùng sông nước miền Tây. Sự xuất hiện của những chiếc du thuyền cao cấp trên dòng Cửu Long đã tạo nên một nét mới trong đời sống thương hồ của người dân vùng này, đồng thời mang đến một hình thức du lịch khám phá mới mẻ cho du khách.

Theo số liệu thống kê của Hiệp hội Du lịch đồng bằng sông Cửu Long, một trong những nguyên nhân khiến du lịch vùng sông nước này chưa phát triển đúng khả năng là do loại hình du lịch, địa điểm ăn nghỉ còn nghèo nàn, đến mức tìm một khách sạn ba hoặc bốn sao cũng đã rất khó dù ngay tại Cần Thơ (vì chúng chỉ chiếm 2% cơ sở lưu trú của toàn vùng), riêng số khách sạn đạt tiêu chuẩn năm sao chỉ đếm được trên đầu ngón tay.

Trong khi đó, mô hình du lịch nghỉ dưỡng miệt vườn lại chưa đủ những tiện nghi tối thiểu cho du khách nên “đến chơi cho biết” thì có thể, chứ nếu ở lại để tận hưởng đôi ba ngày nơi miệt vườn thì đó là chuyện xa vời. Vì vậy, hầu hết du khách đều trở lại TP.HCM sau vài giờ ngồi thuyền trên sông.

Nói về hệ thống ghe tàu du lịch thì phổ biến nhất trên sông Cửu Long là các tour lênh đênh từ bến Ninh Kiều tới cầu Quang Trung, hoặc xa hơn là xuôi sông Hậu đến vàm Cái Đôi nghe đàn ca tài tử hằng đêm, giá vé 20.000-40.000 đồng/lượt/người. Ngoài ra còn có hệ thống tàu du lịch chuyên chở khách tham quan chợ nổi, thăm cồn Phụng, cồn Thới Sơn… với mức giá 100.000-350.000 đồng/tour. Loại tàu ghe nhỏ được dùng để đưa khách theo tour đường sông “ngắn hạn” nên trên tàu chỉ có vài bộ áo phao dành cho du khách là… đủ!

Sự xuất hiện của những chiếc du thuyền “năm sao” đã mang đến một diện mạo mới cho dòng Cửu Long. Có thâm niên lâu nhất là du thuyền Bassac Cruise (được đặt theo tên dòng sông Hậu ngày xưa), gồm ba chiếc bằng gỗ đen bóng. Tàu Bassac có dáng dấp chiếc ghe bầu của giới thương hồ miền Tây, gồm ba tầng với sáu phòng ngủ đôi.

Dần dà, sự xuất hiện của du thuyền Mekong Eyes, Mekong Feeling, Pandaw Cruiser, La Marguerite, La Cochinchine… đã giúp cho cuộc chơi sông nước thêm phần đa dạng, thậm chí chuyện “ăn - ở” có phần còn hoàn thiện hơn vì số lượng phòng nghỉ đã lên đến vài chục. Các tàu đều có khoang bếp riêng, chất lượng ăn uống cũng thuộc hàng “sao”, trên tàu lênh đênh mà vẫn có thể tìm bất cứ món Tây nào hay một bữa cơm theo đúng phong cách Nam bộ với bông súng cá kho, canh chua cá…

Ngoài ra, tàu còn có phòng đọc sách, chỗ xem phim và tầng thượng để du khách sưởi nắng, hay một boong mở khá đẹp để khách uống nước và ngắm cảnh. Chủ nhân chiếc du thuyền Mekong Eyes từng chia sẻ điều quan trọng để xây dựng thương hiệu cho du thuyền sông nước là ngoài sự tiện nghi và sang trọng, còn phải biết “giao thương quốc tế”, tức là không làm cho du khách thấy mình trở nên lạ lẫm khi ngao du trên sông nước miền Tây.

Ở trên tàu, du khách phải được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu cao cấp trong điều kiện trôi bồng bềnh giữa sông, mọi thiết bị trên tàu đều phải đạt sự an toàn tuyệt đối, đặc biệt là hệ thống điện, máy nước nóng, máy lạnh… Ngoài ra, các hoạt động vui chơi giải trí cũng phải đa dạng và sẵn sàng cho nhu cầu khám phá vẻ đẹp địa phương, chẳng hạn có canô, thuyền Kayak hay xe đạp để giúp những khách muốn vào sông lạch nhỏ hay khám phá thôn xóm miệt vườn.

Hầu hết các tàu có thể mở rộng tour đến Campuchia (kéo dài đến bảy, tám ngày) nếu du khách có nhu cầu. Loại hình này cũng khá thích hợp với những nhóm khách cần sự riêng tư, bởi thông thường, các tàu chỉ đón tiếp 20-60 khách/chuyến. Giá cả cho một chuyến hành trình hai ngày một đêm trên tàu thường từ 4 triệu đồng/khách trở lên. Tuy nhiên, lượng khách đặt tour đến nay vẫn chưa nhiều, trong khi nhu cầu của khách trong và ngoài nước có lẽ khá lớn. Lý do cơ bản là thông tin quảng bá còn yếu.

Tàu chạy với vận tốc trung bình 10 hải lý/giờ nên đủ giúp du khách thưởng ngoạn và ghi nhận lại cảnh sông nước miền Tây khá trọn vẹn. Bình yên, thư giãn và khám phá những điều lạ lẫm bằng một hình thức du lịch nghỉ dưỡng mới mẻ sẽ là điểm thu hút các du khách khi đến với những chiếc tàu hạng sang này.

Du lịch, GO! - Theo Hải Yến (DNSGCT)