Nghe đến danh tiếng chùa Tây Phương đã lâu, nhất là sau khi bài thơ "Các vị La Hán chùa Tây Phương” của nhà thơ Huy Cận trở nên nổi tiếng, tôi rất mong một lần đến thăm.
< Chùa Tây Phương (tên chữ là Sùng Phúc tự) là một ngôi chùa ở trên ngọn núi Câu Lâu ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
Nhưng ước muốn không dễ thực hiện, bởi vì khoảng cách địa lý gần 2.000km. Mãi tới những ngày cuối xuân này, khi hội chùa Tây Phương cũng vừa kết thúc, tôi mới có dịp đặt chân lên những bậc đá ong nổi tiếng của "xứ Đoài mây trắng”.
Chùa Tây Phương tên chữ là "Sùng Phúc tự”, nhưng khi vừa bước chân hết những bậc đá ong khấp khểnh, nhiều hòn đã mòn vẹt, thì 4 chữ đại tự "Tây Phương cổ tự” hiện ra.
< Theo nhiều thông tin còn lưu giữ lại thì chùa Tây Phương được xây dựng khoảng thể kỷ 8 và là chùa cổ thứ hai sau chùa Dâu ở Bắc Ninh nước ta.
Chùa nằm trên ngọn núi Câu Lậu (thuộc thôn Yên, Thạch Xá, Thạch Thất, Hà Nội), cách trung tâm Thủ đô chừng 30km. Tương truyền chùa được xây từ thế kỷ thứ 8.
< Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657-1682, Tây Đô Vương Trịnh Tạc lại cho phá chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ Tự" và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay.
< Chùa được xây dựng theo lối kiến trúc kiểu chữ Tam với ba toà cấp dọc theo sườn núi, dựa vào thế núi từ thấp lên cao thành ba ngôi chùa song song với nhau gồm có chùa: Chùa Hạ, chùa Trung, Chùa Thượng. Mỗi toà đều có kiến trúc riêng rẽ nhưng lại kết hợp thành một quần thể.
< Từ chân núi, phải trải qua 239 bậc lát đá ong thì mới đến đỉnh núi và cổng chùa.
Năm Giáp Dần (1554) (thời Lê Trang Tông) ngôi chùa tiếp tục có cuộc tôn tạo lớn. Sau đó, chùa bị phá đi, xây mới và dựng thêm tam quan. Chùa Tây Phương còn đến nay đã được xây lại trên nền chùa cũ, đúc thêm chuông vào năm 1788 - 1789 dưới triều Tây Sơn, và gắn chữ "Tây Phương cổ tự” từ đó.
< Chùa Tây Phương gồm ba nếp nhà song song: bái đường, chính điện và hậu cung. Mỗi nếp có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tường xây toàn bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần tạo thành một không khí rất thô sơ mộc mạc, điểm những của sổ tròn với biểu tượng sắc và không; các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh trong khắc hình cánh sen.
Trải qua bao thời gian, chùa Tây Phương có kiến trúc độc đáo với 3 toà xếp thành hình chữ Tam: chùa Thượng (thờ các vị La Hán), chùa Trung (thờ Phật Tuyết Sơn), chùa Hạ (thờ bát bộ Kim Cương). Chùa nằm trên ngọn đồi cao (Câu Lậu sơn) nên để có thể bước chân vào lễ Phật, du khách còn phải chinh phục hơn 200 bậc đá ong cổ. Bước qua khoảng sân, là vào chùa Hạ đại diện của chữ Nhân, tiếp đến là chùa Trung - chữ Thiên, chùa Thượng - chữ Địa.
< Xung quanh diềm mái của ba toà nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng giàu sức khái quát và khả năng truyền cảm.
Đến chùa Tây Phương tháng 4 sau mùa hội chính, tôi bắt gặp ở đây rất nhiều đoàn khách hành hương, trong đó có những chuyến xe chở học sinh đi dã ngoại.
Thì ra, sau khi được học thi phẩm nổi tiếng "Các vị La Hán chùa Tây Phương” của nhà thơ Huy Cận (được tác giả viết từ những năm 60 của thế kỷ trước, với những câu thơ như vẽ, như tạc), rất đông học sinh muốn một lần được đặt chân tới ngôi chùa nổi tiếng này, để thêm hiểu, thêm yêu về một danh lam.
< Mái chùa Tây Phương rất đặc biệt có những góc đao cong vút lên, cấu tạo theo kiểu hai lớp, hình thành một không gian rộng và thoáng đãng. Mái lợp hai lớp ngói: mái trên có múi in nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa xếp trên những hàng rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn.
< Nơi đây còn là nơi tập trung những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm chạm trổ, phù điêu và tạc tượng. Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có chạm trổ. Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... đều có chạm trổ đề tài trang trí quen thuộc của dân tộc Việt: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù... rất tinh xảo được tạo ra dưới bàn tay thợ tài hoa của các nghệ nhân làng mộc ngay trong vùng Tổng Nủa, làng truyền thống Chàng Sơn Làng nghề mộc lâu đời và nổi tiếng của xứ Đoài.
< Tổng cộng trong chùa có khoảng 72 pho tượng gỗ theo kiểu tượng tròn được đánh giá vào loại bậc nhất về nghệ thuật tạc tượng cổ nước ta. Các tượng được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng.
< Nhiều pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ Pháp, cao chừng 3 m, trang nghiêm phúc hậu. Phần lớn các tượng này đều được coi là có niên đại cuối thế kỷ 18. Một số tượng khác được tạc vào giữa thế kỷ 19.
Đồng thời, qua chuyến đi, chúng ta có thể hiểu sâu hơn về địa thế, địa hình, về 18 pho tượng La Hán độc đáo chỉ có ở "Tây Phương cổ tự”. Hiện trong chùa còn chuông đồng đúc năm Bính Thìn 1796, năm Cảnh Thịnh thứ 4 và bài Minh do Phan Huy Ích soạn khắc vào chuông năm Mậu Ngọ (Cảnh Thịnh thứ 6).
Ngoài bộ tượng La Hán, chùa Tây Phương còn có nhiều pho tượng được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng. Phần lớn các tượng này đều được coi là có niên đại cuối thế kỷ 18.
< Các bộ tượng gồm Tam thế Phật (quá khứ, hiện tại, vị lai), tượng Di đà tam tôn, tượng Tuyết sơn miêu tả đức phật Thích Ca trong thời kỳ tu khổ hạnh. Hai bên tượng Tuyết Sơn có tượng A Nan và Ca diếp đứng hầu; tượng đức phật Di Lặc tượng trưng cho vị phật của thế giới cực lạc tương lai, người mập mạp ngồi hơi ngả về phía sau, toàn thân toát lên sự hoan hỉ, đại lượng; tượng Văn Thù Bồ Tát; tượng phổ hiền Bồ Tát; tượng Bát bộ Kim cương…
< Đặc biệt hơn cả là 16 pho tượng La Hán lớn bằng người thật trong các tư thế khác nhau ở hai bên tường lâu của thượng điện. Giống như nhà thơ Huy Cận miêu tả, mỗi vị là một nỗi khổ, cử chỉ, dáng điệu riêng thể hiện những tính cách khác nhau khá sinh động và hiếm thấy trong nghệ thuật điêu khắc cổ
Một số tượng khác được tạc vào giữa thế kỷ 19. Hệ thống tượng ở chùa Tây Phương gồm: bộ tượng Tam Thế Phật với ba pho tượng Phật: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai; bộ tượng Di-đà Tam Tôn: gồm tượng đức Phật A-di-đà, đứng hai bên là Quan Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát; tượng Tuyết Sơn miêu tả đức Phật Thích ca trong thời kỳ tu khổ hạnh; hai bên tượng Tuyết Sơn có tượng A Nan và Ca Diếp đứng hầu; tượng đức Phật Di lặc tượng trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc tương lai; tượng Văn thù Bồ Tát: đứng chắp tay, chân đi đất, các ngón chân bấm móng xuống mặt bệ...
Thăm "Tây Phương cổ tự” ta thêm một lần hiểu hơn triết lý "sắc sắc không không” của nhà Phật.
Du lịch, GO! - Theo Daophatngaynay, Giaoduc.net
< Chùa Tây Phương (tên chữ là Sùng Phúc tự) là một ngôi chùa ở trên ngọn núi Câu Lâu ở thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, thành phố Hà Nội.
Nhưng ước muốn không dễ thực hiện, bởi vì khoảng cách địa lý gần 2.000km. Mãi tới những ngày cuối xuân này, khi hội chùa Tây Phương cũng vừa kết thúc, tôi mới có dịp đặt chân lên những bậc đá ong nổi tiếng của "xứ Đoài mây trắng”.
Chùa Tây Phương tên chữ là "Sùng Phúc tự”, nhưng khi vừa bước chân hết những bậc đá ong khấp khểnh, nhiều hòn đã mòn vẹt, thì 4 chữ đại tự "Tây Phương cổ tự” hiện ra.
< Theo nhiều thông tin còn lưu giữ lại thì chùa Tây Phương được xây dựng khoảng thể kỷ 8 và là chùa cổ thứ hai sau chùa Dâu ở Bắc Ninh nước ta.
Chùa nằm trên ngọn núi Câu Lậu (thuộc thôn Yên, Thạch Xá, Thạch Thất, Hà Nội), cách trung tâm Thủ đô chừng 30km. Tương truyền chùa được xây từ thế kỷ thứ 8.
< Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657-1682, Tây Đô Vương Trịnh Tạc lại cho phá chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ Tự" và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay.
< Chùa được xây dựng theo lối kiến trúc kiểu chữ Tam với ba toà cấp dọc theo sườn núi, dựa vào thế núi từ thấp lên cao thành ba ngôi chùa song song với nhau gồm có chùa: Chùa Hạ, chùa Trung, Chùa Thượng. Mỗi toà đều có kiến trúc riêng rẽ nhưng lại kết hợp thành một quần thể.
< Từ chân núi, phải trải qua 239 bậc lát đá ong thì mới đến đỉnh núi và cổng chùa.
Năm Giáp Dần (1554) (thời Lê Trang Tông) ngôi chùa tiếp tục có cuộc tôn tạo lớn. Sau đó, chùa bị phá đi, xây mới và dựng thêm tam quan. Chùa Tây Phương còn đến nay đã được xây lại trên nền chùa cũ, đúc thêm chuông vào năm 1788 - 1789 dưới triều Tây Sơn, và gắn chữ "Tây Phương cổ tự” từ đó.
< Chùa Tây Phương gồm ba nếp nhà song song: bái đường, chính điện và hậu cung. Mỗi nếp có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tường xây toàn bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần tạo thành một không khí rất thô sơ mộc mạc, điểm những của sổ tròn với biểu tượng sắc và không; các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh trong khắc hình cánh sen.
Trải qua bao thời gian, chùa Tây Phương có kiến trúc độc đáo với 3 toà xếp thành hình chữ Tam: chùa Thượng (thờ các vị La Hán), chùa Trung (thờ Phật Tuyết Sơn), chùa Hạ (thờ bát bộ Kim Cương). Chùa nằm trên ngọn đồi cao (Câu Lậu sơn) nên để có thể bước chân vào lễ Phật, du khách còn phải chinh phục hơn 200 bậc đá ong cổ. Bước qua khoảng sân, là vào chùa Hạ đại diện của chữ Nhân, tiếp đến là chùa Trung - chữ Thiên, chùa Thượng - chữ Địa.
< Xung quanh diềm mái của ba toà nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng giàu sức khái quát và khả năng truyền cảm.
Đến chùa Tây Phương tháng 4 sau mùa hội chính, tôi bắt gặp ở đây rất nhiều đoàn khách hành hương, trong đó có những chuyến xe chở học sinh đi dã ngoại.
Thì ra, sau khi được học thi phẩm nổi tiếng "Các vị La Hán chùa Tây Phương” của nhà thơ Huy Cận (được tác giả viết từ những năm 60 của thế kỷ trước, với những câu thơ như vẽ, như tạc), rất đông học sinh muốn một lần được đặt chân tới ngôi chùa nổi tiếng này, để thêm hiểu, thêm yêu về một danh lam.
< Mái chùa Tây Phương rất đặc biệt có những góc đao cong vút lên, cấu tạo theo kiểu hai lớp, hình thành một không gian rộng và thoáng đãng. Mái lợp hai lớp ngói: mái trên có múi in nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa xếp trên những hàng rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn.
< Nơi đây còn là nơi tập trung những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm chạm trổ, phù điêu và tạc tượng. Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có chạm trổ. Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... đều có chạm trổ đề tài trang trí quen thuộc của dân tộc Việt: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù... rất tinh xảo được tạo ra dưới bàn tay thợ tài hoa của các nghệ nhân làng mộc ngay trong vùng Tổng Nủa, làng truyền thống Chàng Sơn Làng nghề mộc lâu đời và nổi tiếng của xứ Đoài.
< Tổng cộng trong chùa có khoảng 72 pho tượng gỗ theo kiểu tượng tròn được đánh giá vào loại bậc nhất về nghệ thuật tạc tượng cổ nước ta. Các tượng được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng.
< Nhiều pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ Pháp, cao chừng 3 m, trang nghiêm phúc hậu. Phần lớn các tượng này đều được coi là có niên đại cuối thế kỷ 18. Một số tượng khác được tạc vào giữa thế kỷ 19.
Đồng thời, qua chuyến đi, chúng ta có thể hiểu sâu hơn về địa thế, địa hình, về 18 pho tượng La Hán độc đáo chỉ có ở "Tây Phương cổ tự”. Hiện trong chùa còn chuông đồng đúc năm Bính Thìn 1796, năm Cảnh Thịnh thứ 4 và bài Minh do Phan Huy Ích soạn khắc vào chuông năm Mậu Ngọ (Cảnh Thịnh thứ 6).
Ngoài bộ tượng La Hán, chùa Tây Phương còn có nhiều pho tượng được tạc bằng gỗ mít sơn son thếp vàng. Phần lớn các tượng này đều được coi là có niên đại cuối thế kỷ 18.
< Các bộ tượng gồm Tam thế Phật (quá khứ, hiện tại, vị lai), tượng Di đà tam tôn, tượng Tuyết sơn miêu tả đức phật Thích Ca trong thời kỳ tu khổ hạnh. Hai bên tượng Tuyết Sơn có tượng A Nan và Ca diếp đứng hầu; tượng đức phật Di Lặc tượng trưng cho vị phật của thế giới cực lạc tương lai, người mập mạp ngồi hơi ngả về phía sau, toàn thân toát lên sự hoan hỉ, đại lượng; tượng Văn Thù Bồ Tát; tượng phổ hiền Bồ Tát; tượng Bát bộ Kim cương…
< Đặc biệt hơn cả là 16 pho tượng La Hán lớn bằng người thật trong các tư thế khác nhau ở hai bên tường lâu của thượng điện. Giống như nhà thơ Huy Cận miêu tả, mỗi vị là một nỗi khổ, cử chỉ, dáng điệu riêng thể hiện những tính cách khác nhau khá sinh động và hiếm thấy trong nghệ thuật điêu khắc cổ
Một số tượng khác được tạc vào giữa thế kỷ 19. Hệ thống tượng ở chùa Tây Phương gồm: bộ tượng Tam Thế Phật với ba pho tượng Phật: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai; bộ tượng Di-đà Tam Tôn: gồm tượng đức Phật A-di-đà, đứng hai bên là Quan Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát; tượng Tuyết Sơn miêu tả đức Phật Thích ca trong thời kỳ tu khổ hạnh; hai bên tượng Tuyết Sơn có tượng A Nan và Ca Diếp đứng hầu; tượng đức Phật Di lặc tượng trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc tương lai; tượng Văn thù Bồ Tát: đứng chắp tay, chân đi đất, các ngón chân bấm móng xuống mặt bệ...
Thăm "Tây Phương cổ tự” ta thêm một lần hiểu hơn triết lý "sắc sắc không không” của nhà Phật.
Du lịch, GO! - Theo Daophatngaynay, Giaoduc.net
0 nhận xét :
Đăng nhận xét