Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2011

Theo các nhà nghiên cứu trang phục thì có thể yếm ra đời từ thời Lý. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng không chỉ ra được tại sao nó ra đời vào thời kỳ này. Yếm của phụ nữ Việt Nam thực ra là chiếc áo lót như quan niệm của người phương Tây, phía trước yếm che kín đến tận cổ. Từ trẻ con đến phụ nữ cao tuổi đều mặc yếm. Song đáng nói chính là chiếc yếm với thiếu nữ.

Mùa hè, xứ đàng ngoài nóng bức nên các bà, các cô chỉ mặc độc chiếc yếm nên yếm vừa là áo lót và cũng chính là áo ngoài và họ đi cùng làng cuối ngõ với chiếc yếm. Còn mùa đông, gió đông bắc thổi lạnh cắt da cắt thịt thì cái yếm ở yên bên trong với nghĩa là chiếc áo lót hiền lành.

Thực ra người Việt ý thức được sự “khoe khoang” hay “hững hờ” của cái yếm phụ nữ trong cuộc sống hàng ngày nhưng dường như họ cứ mặc. Yếm đi vào thơ ca hò vè khi thì bóng gió, cũng có khi nói toạc ra. Trong trích đoạn Thị Mầu lên chùa của vở Quan Âm Thị Kính có câu: “Gió xuân tốc dải yếm đào. Chàng trông thấy oản sao không vào thắp hương?”.

Trong tình cảm, yếm là vật để các chàng trai mang ra trêu chọc, thách thức khi hát đối: “Trời mưa lấy yếm mà che. Có anh đứng gác còn e nỗi gì”.

Các cô cũng chẳng vừa đáp lại: “Ước gì sông hẹp tầy gang. Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”.

Yếm cũng tượng trưng cho tình cảm của các cô gái trong chuyện trao gửi tình cảm: “Trầu em têm tối hôm qua. Buộc trong dải yếm mở ra mời chàng”.

Hay mong ước của chàng trai và cũng có thể là lời của một cô gái gửi cho người mình yêu: “Trời mưa trời gió kìn kìn. Đắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông”.

Trong bài thơ “Chân quê” của Nguyễn Bính, chiếc yếm lại trở thành “chuẩn đạo đức” cho các cô gái ở nông thôn: “Còn đâu cái yếm lụa sồi. Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân...”.

Nếu cái yếm ở các miền quê Bắc bộ chỉ đơn thuần là chiếc áo lót may bằng vải thô nhuộm nâu hay bằng đũi thì ở Thăng Long - Hà Nội, không chỉ là chiếc áo lót mà nó trở thành vật trang điểm cho người phụ nữ và càng hấp dẫn hơn khi yếm được may bằng lụa với hình dạng khác nhau, từ cổ tròn, đến cổ chữ V...

Từ màu nâu ở thôn quê ra Thăng Long lại là màu trắng, màu xanh lơ, hoa hiên và màu hoa đào phơn phớt. Song khác với phụ nữ ở vùng quê có thể mặc yếm ra đường mà không ai dị nghị và dè bỉu thì phụ nữ - nhất là phụ nữ chưa chồng - ở Thăng Long không bao giờ chỉ mặc độc chiếc yếm ra đường vì mặc như vậy bị cho là con nhà không có người dạy.

Thăng Long - Hà Nội còn có hẳn chợ chuyên bán yếm lụa là “Đồng Lạc quyến yếm thị” ở phường Đồng Lạc và phường Đại Lợi, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương (nay là đình Đồng Lạc ở 38 phố Hàng Đào). Đình thờ ba vị trong tứ trấn thành Thăng Long là Bạch Mã Thành hoàng Quốc đô, Thánh Linh Lang (thờ chính ở đền Voi Phục Thủ Lệ) và Thánh Cao Sơn trấn phía Nam (thờ chính ở đình Kim Liên).

Tại đây có tấm bia đá tạc sau rằm tháng tám năm Bính Thìn 1856 đời Tự Đức, do cử nhân Phạm Đình Viên người phủ Khoái Châu, Hưng Yên soạn. Mở đầu có đoạn: “Đình chợ bán yếm lụa do Hiệu chủ Nguyễn Công Trung và vợ là Nguyễn Thị Từ Thiết xây dựng đời Lê, quy mô rộng rãi. Nhưng vì chiến tranh, đình bị phá hủy. Về sau, ông Hà Đình Nguyễn Cảnh Thê đứng ra lo việc trùng tu lại...”.

Song truyền thống phụ nữ xưa thường tự mua lấy lụa may yếm cho mình thì tại sao Thăng Long - Hà Nội lại còn xuất hiện cả một cái chợ dành cho phường bán yếm? Có lẽ gọi là chợ yếm nhưng ở đó bán cả những sản phẩm tuyệt hảo của tơ tằm để đàn bà, con gái Thăng Long rủ nhau đến chọn lụa may yếm và không chỉ thế, họ còn sắm sửa lụa là gấm vóc để may quần áo tứ thân, năm thân, áo cánh, dây lưng, khăn vấn… và kể cả đồ trang sức vàng bạc nữa…

Thời kỳ hậu Lê, đàn bà lao động mặc yếm cổ xây (miếng vải vuông đặt chéo trên ngực người mặc, ở góc trên có khoét hình tròn). Phụ nữ quyền quý thì trước yếm có thêm một vài đường dây tết lại với nhau thành hình lưới quả trám. Màu sắc của những chiếc yếm thời kỳ này còn giản đơn, chủ yếu được nhuộm bằng những loại màu có nguồn gốc tự nhiên. Và không chỉ là vật trang điểm, yếm của phụ nữ Thăng Long - Hà Nội còn thể hiện nghề nghiệp và đẳng cấp trong xã hội. Con gái quan lại mới được mặc yếm màu đại hồng, các cô làm nghề ca kỹ thường mặc yếm màu hoa đào, màu được cho là lẳng lơ, không đứng đắn.

Phụ nữ giầu có còn cho gắn các viên ngọc lên cổ. Yếm cũng làm nên sự lịch lãm và tinh tế của phụ nữ Kinh kỳ khi mặc kiểu áo 5 khuy, các cô chỉ cài 4 khuy dưới và để hở khuy ngực khoe cái yếm cổ xây, ôm lấy cái cổ cao ba ngấn nõn nà. Trong các ghi chép của nhiều người Pháp đến Hà Nội cuối thế kỷ XIX thì họ đều sửng sốt trước cái yếm. Bác sỹ Hocrquad viết: “Chỉ có một mảnh vải đơn sơ trước ngực nhưng nó làm cho cánh đàn ông phải suy nghĩ nhất là các cô gái thắt chiếc dây ở ngang lưng một cách lỏng lẻo”.

Cùng với nón có quai tua, chân đi guốc, yếm xanh, yếm đào là mốt của con gái nhà khá giả cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Mốt này còn kéo dài cho đến đầu những năm 30 thế kỷ XX khi mà Nguyễn Nhược Pháp phải lòng người đẹp: “Nho nhỏ cái đuôi gà cao. Em đeo cái dải yếm đào. Quần lĩnh áo the mới. Tay em cầm chiếc nón quai thao. Chân em đi đôi guốc cao cao”.

Trải qua thời gian, chiếc yếm có sự thay đổi, tuy nhiên có một thứ không bao giờ thay đổi là 4 chiếc dây, hai dây buộc cổ và hai dây buộc ngang thắt lưng. Chỉ cần hai dây buộc thắt lưng mà thắt lỏng là câu chuyện đã khác, vì thắt lỏng hai bên sườn lộ ra, có lẽ vì thế mà có câu: “Đàn ông mặc áo đuôi lươn. Đàn bà mặc áo hở lườn mới xinh”.

Chiếc yếm dường như ít được phụ nữ mặc hơn vào cuối những năm 1930 khi mà lối sống Pháp, thời trang Pháp ngày càng trở nên phổ biến trong giới trẻ. Đến đầu những năm 1950 thì không còn thấy phụ nữ mặc yếm, trừ những người có tuổi. Thay thế chiếc yếm là chiếc áo lót kiểu phương Tây được nhập vào Việt Nam. Bây giờ chiếc yếm xưa lại sống lại, tuy nhiên nó được cải tiến, không may bằng lụa mà may bằng vải thô mỏng, cổ khoét sâu hơn cốt để khoe bờ ngực. Quần bò và áo yếm một giai đoạn cũng là mốt của thanh nữ Hà thành.

Áo yếm - Di sản trang phục của Việt Nam

Du lịch, GO! - Theo Nguyễn Ngọc Tiến, Hanoimoi - internet

0 nhận xét :

Đăng nhận xét